EU
HRC: Platts định giá HRC Bắc Âu không đổi ở 415-420euro/tấn xuất xưởng Ruhr thứ Sáu. Hoạt động nhà máy vẫn trầm lắng và dự kiến sẽ tiếp tục như vậy cho đến cuối tháng Tám, với vài chào giá công khai đến thị trường. Đồng euro mạnh lên và cuộc điều tra chống bán phá giá sâu rộng có nghĩa là chào bán nhập khẩu thưa thớt và không thể cạnh tranh. Hai nguồn tin cho hay các chào giá là 415 euro FCA Antwerp.
Thổ Nhĩ Kỳ
Tấm mỏng: Không có hoạt động thương mại đáng chú ý đã được nhìn thấy trong thị trường tấm mỏng trong nước vào tuần trước trong bối cảnh biến động tỉ giá liên tục, hậu quả của các cuộc đảo chính quân sự không thành tiếp tục gây ra những rắc rối đến động lực của nền kinh tế.
Chào giá HRC trong nước của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ trong khoảng 410-430usd/tấn trong tuần trước do nhu cầu tiêu thụ chậm, nhưng các giá chào dưới mức này cũng đã có mặt trên thị trường. Chào giá CRC từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng xuống mức thấp 500-520usd/tấn xuất xưởng vào tuần trước do nhu cầu chậm.
Thị trường thép cuộn mạ ở Thổ Nhĩ Kỳ cũng vẫn yên ắng trong tuần trước. Giảm giá khiến cho giá chào ở thị trường trong nước cho HDG dày 0.5mm còn 550-580usd/tấn xuất xưởng cho các đơn hàng đặt khá lớn tùy thuộc vào các điều khoản thanh toán. Chào giá trong nước của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho PPGI 9002 dày 0.5mm ở mức 650-680usd/tấn xuất xưởng.
Thép cây: Giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ chốt tuần với xu hướng tăng nhẹ khi các nhà xuất khẩu thúc đẩy giá chào mạnh hơn do chi phí đầu vào cao. Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 380-390usd/tấn FOB thứ Sáu, với trung điểm là 385usd/tấn lên đến 7,50usd/tấn trong ngày.
CIS
Phôi thanh: Platts định giá phôi thanh xuất khẩu CIS ở mức 317,5usd/tấn FOB Biển Đen hôm thứ Sáu, ổn định trong ngày.
Nga
HRC: Mặc dù một số nhà máy của Nga đã công bố duy trì giá nội địa tháng Bảy đến tháng Tám cho thép cuộn cán nóng và tấm mỏng, những nhà máy khác đã giảm nhẹ giá giảm bớt mức chênh lệch giá tăng cao của giá CPT Moscow so với giá xuất khẩu CIS trên cơ sở FOB Biển Đen.
Hôm 29/07, Platts giảm định giá tấm mỏng và cuộn cán nóng dày 2-4mm 200 rúp (3usd)/tấn trong tuần, còn 30.200-30.900 rúp (455-465usd)/tấn và 29.600-30.300 rúp (445-455usd)/tấn, tương ứng, CPT Moscow. Mặc dù có sự sụt giảm, giá HRC trong nước Nga duy trì mức chênh lệch tăng 80 usd so với giá xuất khẩu CIS FOB Biển Đen.
Thép cây: Giá thép cây nội địa Nga đã giảm hơn nữa trong tuần trước, đưa thị trường trở lại thế cân bằng với giá quốc tế. Hôm 29/07 Platts giảm định giá thép cây 12-14mm của Nga 855 rúp (13usd)/tấn so với tuần trước, còn 25.450-25.800 rúp (382-387usd)/tấn CPT Moscow.
Mỹ
Tấm mỏng: Giá thép cuộn cán nóng và cán nguội kết thúc tuần trước, và tháng Bảy trì trệ, ổn định do hoạt động thu mua ít ỏi bất chấp hàng tồn kho ở mức thấp. Platts duy trì đánh giá HRC và CRC hàng ngày ở 610-630usd/tấn ngắn và 820-840usd/tấn ngắn, tương ứng. Cả hai giá này được chuẩn hóa theo cơ sở giá xuất xưởng Midwest (Indiana).
Châu Á
CRC không gỉ: Giá thép không gỉ Đông Á tiếp tục xu hướng đi lên trong tuần trước do niken và giá niêm yết từ các nhà máy cao hơn. Giá CRC không gỉ loại 304 2mm 2B được sản xuất từ Đài Loan và Hàn Quốc tuần trước được định giá tăng 20 USD/tấn lên 1.850-1.920 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á.
Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange chốt tại 10.530-10.535 USD/tấn hôm 28/7, giảm 110 USD/tấn so với tuần trước đó.
Thép cây: Hôm 29/7, giá thép cây giao ngay ở Châu Á tiếp tục tăng trong ngày thứ 2 do giao dịch diễn ra ở mức cao hơn trong bối cảnh giá trong nước biến động mạnh. Các nhà máy Trung Quốc đã chọn cách đợi bên lề vào đầu tuần trước nhưng bị kích động từ ngày thứ Năm trong việc nâng chào giá sau khi giá giao sau tăng liên tục đã cổ vũ cho giá trong nước. Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 325-328 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, tăng 1,5 USD/tấn so với thứ Năm.
Phôi thanh: Sự biến động liên tục trong giá phôi thanh Trung Quốc đang khiến các nhà nhập khẩu ở khu vực Đông Á vẫn còn ở bên lề. Nhu cầu thép cây trì trệ trong suốt quý này đang mang đến cho họ sự linh hoạt để làm như vậy. Platts duy trì định giá cho phôi thanh 120mm/130mm Đông Á nhập khẩu là 315-325 USD/tấn CFR, mức giá trung bình 320 USD/tấn CFR.
Phôi tấm: Thị trường phôi tấm nhập khẩu ở Đông Á ổn định trong suốt nửa cuối tháng 7 sau khi giá rớt vào đầu tháng. Các nhà cung cấp đang duy trì chào giá do giá HRC Trung Quốc và quặng sắt ổn định.
Hôm 29/7, Platts định giá hàng tháng cho SAE1008, SAE1006 hay loại phôi tấm tương đương có giá 335-340 USD/tấn CFR, giảm từ 350-360 USD/tấn CFR vào cuối tháng 6. Mức giá trung bình 337,5 USD/tấn, thấp hơn 17,5 USD/tấn so với tháng trước đó.
HRC: Đà tăng của giá HRC giao ngay ở Châu Á trong tuần trước đã chấm dứt hôm thứ Sáu bởi vì thị trường Trung Quốc nguội lại. Mặc dù người mua ở nước ngoài vẫn tránh xa thị trường nhưng hy vọng cho xu hướng xuất hiện rõ ràng hơn trong tuần đầu tiên của tháng 8. Platts định giá SS400 HRC 3.0mm trong khoảng 362-367 USD/tấn FOB, không đổi so với ngày trước đó. Thép cuộn cùng loại được định giá 370-375 USD/tấn CFR Đông Á, bằng với tuần trước đó.
Trung Quốc
Quặng sắt: Giá quặng sắt giao ngay được hỗ trợ đầu tuần trước vì nhu cầu gia tăng, nhờ giá thép cao hơn và nhu cầu tái bổ sung hàng dự trữ. Nhu cầu mạnh mẽ vì các nhà máy tìm đảm bảo có được các lô hàng sau khi sắp kết thúc lệnh cấm thiêu kết ở Đường Sơn, khiến nhu cầu nguyên liệu tồn tại các cảng và cả quặng nhập khẩu đều tăng. Tuy nhiên, giá hướng xuống vào cuối tuần khi khách hàng bắt đầu rút lui khỏi thị trường.
Hôm 29/7, Platts định giá 62% Fe IODEX ở mức 60 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc, giảm 55 cents so với ngày trước đó nhưng cao hơn 3,35 USD/dmt so với 1 tuần trước. Chỉ số quặng 62% Fe của TSI tăng 3,1 USD/dmt đến cuối tuần chốt tại 58,8 USD/dmt CFR Thiên Tân.
OCTG: Giá xuất khẩu có thể giao dịch cho các sản phẩm dùng trong ngành dầu khí (OCTG) xuất xứ Trung Quốc vào cuối tháng 7 tăng so với tháng trước, phần lớn là nhờ giá thép trong nước phục hồi và chi phí nguyên liệu sản xuất tăng. Hôm thứ Sáu, Platts định giá R3-length API J/K55 177.8x8.05mm (7 inch, 23 lb/ft) là 500-540 USD/tấn FOB cảng Thiên Tân, tăng 30 USD/tấn so với tháng trước đó.
Phôi thanh: Giá phôi thanh Trung Quốc một lần nữa đã tăng trong nửa đầu tuần trước cùng với sự mạnh lên của thị trường thép cây giao kỳ hạn Thượng Hải. Giá niêm yết ở Đường Sơn tăng tổng cộng 80 NDT/tấn (12 USD/tấn) trong thứ Tư và Năm nhưng sau đó giảm 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) vào cuối ngày thứ Sáu và chốt tại 2.030 NDT/tấn (305 USD/tấn), tăng 30 NDT/tấn so với tuần trước đó.
Thép tấm: Giá xuất khẩu thép tấm tăng đáng kể suốt tháng 7, phần lớn là do giá thép tấm trong nước và HRC xuất khẩu tăng. Platts định giá xuất khẩu cho thép tấm SS400 12-30mm ở mức 345-350 USD/tấn FOB hôm 29/7, mức trung bình 347,5 USD/tấn FOB, tăng 17,5 USD/tấn so với cuối tháng 6.
Tại thị trường nội địa hôm thứ Năm, Platts định giá thép tấm cùng loại là 2.510-2.580 NDT/tấn (377-388 USD/tấn) ở Thượng Hải, cao hơn cuối tháng 6 165 NDT/tấn.
HRC: Tại thị trường Thượng Hải cùng ngày, Q235 5.5mm HRC được định giá 2.650-2.660 NDT/tấn (398-400 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, giảm 35 NDT/tấn so với ngày trước đó.