EU
Thép hình: Các nhà máy thép hình châu Âu đã đạt được mức giá chào bán tăng 10-15euro/tấn trước lễ Phục Sinh và bây giờ đang chuẩn bị cho một đợt tăng giá thêm nữa, chủ yếu do các nhà máy tin rằng sẽ có một đợt tăng giá nữa trên thị trường phế tháng này. Tuần trước, người mua cho biết giá đang là nằm trong phạm vi 450-460euro/tấn.
Platts định giá thép hình loại 1 ở mức 450-465euro/tấn đã vận chuyển hôm Thứ sáu, tăng so với mức giá tuần trước là 450-460euro/tấn.
CIS
Thép dẹt: Chào giá thép cuộn và phôi tấm từ các nhà sản xuất CIS vẫn mạnh trong tuần trước, nhưng đà tăng đã ít hơn so với ba tuần đầu tiên của tháng 03. Chào giá phôi tấm được chốt ở mức 320-325usd/tấn FOB Biển Đen. Tập đoàn Metinvest của Ukraine đang báo giá ở mức 345usd/tấn CNF Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương với 325-330usd/tấn FOB Biển Azov.
Platts định giá HRC hàng ngày ở mức 375usd/tấn FOB Biển Đen, tăng 5usd/tấn. Định giá CRC tăng 7.50usd/ tấn lên mức 425usd/tấn FOB. Định giá phôi tấm tuần ở mức 300usd/tấn FOB Biển Đen, tăng 2.50usd/tấn.
Phôi thanh: Platts định giá phôi thanh xuất khẩu CIS ở mức 327.5usd/tấn FOB Biển Đen hôm thứ Sáu, tăng 4.50usd/tấn so với thứ Năm.
Thổ Nhĩ Kỳ
Phế: Giá mua phế tàu bằng usd và giá mua phế DKP bằng lira của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục cải thiện vào cuối tuần trước.
Phế nấu chảy từ tàu cũ bắt đầu được chào giá đến các nhà máy ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Habas, IDC, Ege Celik, Ozkan) trong phạm vi233-235usd/tấn hôm thứ Sáu, tăng 5usd/tấn so với đầu tuần trước.
Một số nhà sản xuất thép hàng đầu của Thổ Nhĩ Kỳ cũng tiếp tăng giá thu mua. Nhà máy thép tích hợp Eregli của tập đoàn Erdemir đã tăng giá mua đối với phế DKP thêm 45TRY (16usd)/tấn lên mức 690TRY (245usd)/tấn vào thứ Sáu, trong khi Isdemir, nhà máy của tập đoàn Iskenderun, cũng tăng giá mua đối với phế DKP thêm 50 TRY (18usd) lên mức 690 TRY (245usd)/tấn.
Colakoglu, cùng với Asil Celik, đã nâng giá mua phế DKP hôm thứ Sáu thêm khoảng 35-40 TRY/tấn (12-14usd)/tấn lên mức 665 TRY (236usd)/tấn, và 680 TRY (241usd)/tấn tương ứng. Nhà sản xuất thép dài tích hợp lớn nhất, Kardemir, cũng tăng giá mua đối với phế DKP thêm 40TRY (14usd)/tấn lên mức 690TRY (245usd)/tấn trong tuần trước.
Giá mua phế DKP trong nước của những nhà sản xuất EAF hàng đầu khác là 665-690TRY (236-245usd)/tấn tùy thuộc vào khu vực và yêu cầu của các nhà máy.
Thép cây: Chào giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đến thị trường Mỹ tiếp tục tăng trong tuần trước do phía nhà máy đẩy giá lên cao hơn. Nhiều thương nhân Mỹ đang đưa ra chào giá ở Gulf of Mexico trong phạm vi 425-435usd/tấn CFR (390usd/tấn ngắn CIF – 400usd/tấn ngắn CFI). Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho hay chào giá ở Gulf từ một nhà máy là 425usd/tấn CFR và 435usd/tấn CFR đến East Coast.
Platts nâng định giá thép cây nhập khẩu vào Mỹ lên mức 381-386usd/tấn ngắn CIF hôm thứ Sáu, tăng từ mức 363-367usd/tấn ngắn CIF. Giá chào Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục cao nhất ở Gulf.
Giá thép cây trong nước của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ nhìn chung vẫn duy trì ổn định vào cuối tuần trước, trong phạm vi 1160-1200TRY (410-425usd)/tấn xuất xưởng, trong khi chào giá xuất khẩu của nhà máy cũng đã vượt quá 400usd/tấn FOB thứ Sáu.
Mỹ
HDG: Giá nội địa Mỹ cho HDG đã tăng vọt trong tháng 03 và hiện có khả năng duy trì đà tăng trong ngắn hạn. Chào giá nhập khẩu cũng tăng nhưng đã đang kém thu hút hơn do thời gian giao hàng kéo dài và không bảo đảm về nguồn cung hiện có cũng như giá cả.
Platts tăng định giá HDG hàng tháng lên mức 670-690usd/tấn ngắn hôm thứ Sáu, tăng từ mức 620-640usd/tấn ngắn của đầu tháng 03. Giá này dựa trên giá cơ bản xuất xưởng Midwest và bao gồm phụ phí mạ G90.
Giá nhập khẩu HDG cũng tăng. Một thương nhân cho biết các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đẩy giá tăng 70-80usd/ tấn so với tháng trước trong bối cảnh giá phế và giá thép toàn cầu tăng cao. HDG của Việt Nam hoặc Thái Lan có lẽ sẽ là lựa chọn nhập khẩu với giá rẻ nhất cho thị trường Mỹ hiện nay, nhưng không thấy giá cả cạnh tranh từ phía hai nước này thời gian gần đây.
Tấm mỏng: Thị trường tấm mỏng Mỹ đang quan sát sự tăng trưởng đáng ngạc nhiên tại thị trường phế hôm thứ sáu, trong khi đà tăng giá có vẻ như sẽ tiếp tục vì nhận được sự hỗ trợ của chi phí phế tăng vọt.
Platts duy trì định giá của HRC và CRC lần lượt ở mức 455-465usd/tấn ngắn và 610-630usd/tấn ngắn. Giá của hai mặt hàng tấm mỏng này đều được chuẩn hóa theo giá cơ bản xuất xưởng Midwest (Indiana).
Một trung tâm dịch vụ cho biết giá phế có thể tăng 30-50usd/tấn dài trong tháng 04 và dự đoán rằng một đợt thông báo tăng giá nữa từ các nhà máy trong nước trong tương lai gần. Các nhà phân phối tấm mỏng hiện đưa ra gía xuất xưởng giá HRC tại mức 450-470usd/tấn ngắn.
Thép cây thương phẩm: Giá thép cây thương phẩm của Mỹ tiếp tục duy trì ổn định trong tháng 03 do nhu cầu tiêu thụ bắt đầu tăng lên. Nhu cầu tiêu thụ đang cải thiện, nhưng điều này có thể là do dự đoán giá thép cây thương phẩm có thể nhanh chóng tăng lên do chi phí nguyên liệu thô tăng mạnh.
Hôm 01/04, Platts duy trì định giá thép góc 2x2x1/4-inch của Mỹ ở mức 558-573usd/tấn ngắn xuất xưởng.
Thép dầm hình H: Giá thép dầm hình H của Mỹ đã duy trì ổn định trong suốt tháng 03, và không như thép cây thương phẩm và những sản phẩm thép dài khác, thép dầm hình H không có xu hướng tăng giá, bất chấp giá phế tăng vọt. Platts vẫn duy trì định giá thép dầm WF medium ở mức giá 640-660usd/tấn ngắn xuất xưởng.
Giá nhập khẩu dầm WF hiện nay khoảng 540-560usd/tấn ngắn đã cập cảng nhưng chào giá cao hơn đang bắt đầu xuất hiện.
Ống thép dầu khí: Mặc dù nhu cầu tiêu thụ tiếp tục suy yếu, giá ống thép dầu khí (OCTG) của Mỹ vẫn đang tăng nhẹ trong vài tuần gần đây. Một trung tâm dịch vụ cho biết các nhà máy trong nước Mỹ đang tăng giá OCTG trong khoảng 10-60usd/tấn ngắn, tùy thuộc vào nhà, trong vài tuần qua.
Hôm thứ Sáu, Platts đã nâng định giá tháng cho thép OCTG J55 lên mức 760-800usd/tấn ngắn xuất xưởng, tăng từ mức 750-780usd/tấn ngắn xuất xưởng. Định giá OCTG nhập khẩu không đổi ở mức 650-675usd/tấn ngắn cập cảng và sau thuế. Giàn khoan ở Mỹ đã giảm 14 giàn còn 450 giàn khoan, giảm 578 giảm so với cùng kỳ năm ngoái xuống mức thấp kỉ lục trong tuần kết thúc ngày 01/04.
Châu Á
Thép không gỉ: Giá CRC không gỉ loại 304 2B 2mm của Đài Loan và Hàn Quốc tăng 35 USD/tấn lên 1.670-1.700 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á hôm thứ Sáu, sau khi các nhà máy Đài Loan nâng chào giá lên cao hơn.
Nhưng liệu giá cao hơn có thể được duy trì hay không thì vẫn chưa rõ do sự bất ổn trong giá niken tháng này. Cụ thể, giá niken giao dịch chính thức bằng tiền mặt trên sàn London Metal Exchange chốt tại 8.275-8.280 USD/tấn hôm 31/3, giảm khoảng 300 USD/tấn so với tuần trước đó. Mức giá này cũng thấp hơn cỡ 140 USD/tấn so với 1 tháng trước.
Nhu cầu thép không gỉ vẫn còn trì trệ mặc dù đang vào mùa cao điểm, điều này cho thấy người mua vẫn còn đang thu mua một cách thận trọng trong bối cảnh thị trường bất ổn như hiện nay. Trong khi đó, thị trường xuất khẩu của thép không gỉ xuất xứ Trung Quốc vẫn còn suy yếu, vì nhiều người đang đợi giá niêm yết mới của các nhà máy, được cho là sẽ thông báo sau khi nghỉ lễ Tảo mộ (2-4/4).
Thép cây: Giá thép cây giao ngay ở Châu Á tăng trở lại trong ngày thứ Sáu khi chào giá thấp từ Trung Quốc đã biến mất cùng với sự phục hồi của thị trường trong nước. Các nhà xuất khẩu Trung Quốc cũng trở nên thận trọng hơn bởi vì họ muốn đợi sự rõ ràng hơn nữa sau lễ Tảo mộ diễn ra từ ngày 2-4/4.
Platts định giá thép cây BS500 tăng 1,5 USD/tấn so với thứ sáu lên 334-336 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế. Cùng ngày tại thị trường Bắc Kinh, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được chốt tại 2.410-2.430 NDT/tấn (373-376 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế, gồm 17% VAT, cao hơn 45 NDT/tấn (7 USD/tấn) so với ngày trước đó.
HRC: Hôm thứ Sáu, giá giao ngay của HRC ở Châu Á không đổi trong ngày thứ tư liên tiếp khi nguồn cung từ các nhà máy Trung Quốc vẫn còn hạn chế- nhưng không đủ sức để thuyết phục người mua chi trả nhiều hơn.
Platts định giá HRC SS400 3.0mm ở mức 370-375 USD/tấn, mức trung bình 371,5 USD/tấn, bằng với ngày trước đó. Thép cuộn loại này được định giá 380-383 USD/tấn CFR Đông Á, tăng 14 USD/tấn so với tuần trước đó. Vấn đề chính nằm ở chỗ thực ra việc có được thép cuộn từ các nhà máy vẫn là một thách thức lớn.
Đối với thép cuộn SAE 1006 2.0mm, Benxi Iron & Steel chào giá 400 USD/tấn CFR Việt Nam và Guofeng/Maanshan Iron & Steel chào giá 390 USD/tấn CFR Việt Nam. Thị trường Việt Nam trầm lắng hôm thứ Sáu và không có giao dịch nào được nghe nói tới.
Phôi thanh: Sự hỗn độn đang ngự trị ở thị trường phôi thanh Đông Á trong tuần qua bởi vì giá có biên độ dao động rộng.
Chào giá cho phôi thanh Q275 120mm ở mức cao 345-355 USD/tấn CFR trong khi thậm chí cũng có một chào giá 325 USD/tấn CFR.
Tại Thái Lan, một vài đơn hàng phôi thanh Q275 150mm được chốt với giá 320-325 USD/tấn CFR hồi đầu tuần. Người bán Trung Quốc đang nâng giá mỗi ngày và một mức giá quá thấp có nguy cơ là sẽ không mua được hàng.
Hôm 1-4, Platts tăng giá phôi thanh 120/130mm Đông Á lên 325-335 USD/tấn CFR từ mức 315-325 USD/tấn CFR trước đó. Mức giá trung bình 330 USD/tấn, cao hơn 10 USD/tấn.
Trung Quốc
HDG: Sự phục hồi mạnh của giá HDG trên thị trường Trung Quốc suốt tháng 3 vừa qua cũng đã khiến cho giá xuất khẩu cao hơn trong suốt thời gian đó.
Hôm 1-4, Platts định giá HDG DX51D 1.0mm, phủ 120 grams kẽm trên một mét vuông là 505-510 USD/tấn FOB, tăng 105,5 USD/tấn so với đầu tháng 3.
Tại thị trường Thượng Hải hôm thứ Sáu, HDG DX51D 1.0mm được giao dịch phổ biến với giá 3.700-3.820 NDT/tấn (572-591 USD/tấn), gồm 17% VAT, tăng 780 NDT/tấn so với đầu tháng 3.
HRC: Shagang sẽ nâng giá xuất xưởng tháng 4 cho HRC thêm 470 NDT/tấn (73 USD/tấn) vì thị trường trong nước tăng mạnh. Động thái này sẽ khiến giá xuất xưởng của Shagang cho HRC Q235 5.5mm tăng lên 2.750 NDT/tấn gồm 17% VAT. Shagang bây giờ đã tăng giá HRC trong 4 tháng liên tiếp, với tổng cộng 870 NDT/tấn.
Platts định giá HRC Q235 5.5mm tại thị trường giao ngay Thượng Hải đạt 2.510-2.530 NDT/tấn xuất xưởng gồm 17% VAT hôm thứ sáu tuần trước, mức trung bình 2.520 NDT/tấn, cao hơn ngày trước đó 70 NDT/tấn.
Hầu hết các đại lý đều cho rằng thị trường thép tăng cao như hiện nay sẽ kéo dài đến hết tháng này, nhờ mức tồn kho thấp và nhu cầu tăng mạnh như kỳ vọng. Trong khi đó, khối lượng giao hàng giảm từ các nhà máy Trung Quốc cũng có thể khiến nguồn cung thiếu hụt và hỗ trợ cho giá thép.
Trên sàn Shanghai Futures Exchange hôm 1-4, hợp đồng HRC giao kỳ hạn tháng 5/2016 chốt tại 2.480 NDT/tấn, tăng 5,3% tức 124 NDT/tấn so với ngày trước đó.
Phôi thanh: Các nhà máy ở Đường Sơn vẫn duy trì giá niêm yết cho phôi thanh ở khoảng 2.000 NDT/tấn (309 USD/tấn). Vào cuối ngày thứ Sáu, giá phôi thanh Đường Sơn là 2.010 NDT/tấn (311 USD/tấn), ít thay đổi so với mức 2.000 NDT/tấn của thứ Hai tuần trước.
Thép cây: Shagang một lần nữa đã tăng giá thép cây xuất xưởng cho thép cây hôm thứ Sáu thêm 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) từ ngày 1-10/4. Nhà máy này đã tăng giá thép cây trong 3 kỳ liên tiếp từ cuối tháng 2, với tổng cộng 430 NDT/tấn.
Lần điều chỉnh mới nhất này khiến giá niêm yết của Shagang cho thép cây HRB400 đường kính 16-25mm lên 2.430 NDT/tấn trọng lượng lý thuyết gồm 17% VAT. Đồng thời công ty cũng đã nâng giá cuộn trơn HPB300 thêm 50 NDT/tấn lên 2.510 NDT/tấn gồm VAT.
Thị trường thép cây không có dấu hiệu suy yếu. Sự ấm lên của thời tiết mùa xuân đang hỗ trợ cho sức mua và giúp đỡ cho giá thép. Ngoài ra, nguồn cung trong nước đã hạn chế nhẹ khi một số nhà máy Trung Quốc đảm bảo có khá đủ đơn hàng để xuất khẩu trong những tháng gần đây.
Tại thị trường giao ngay ở Thượng Hải, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được chốt tại 2.310-2.340 NDT/tấn trọng lượng lý thuyết, tăng 60 NDT/tấn so với một tuần trước đó.
Thép không gỉ: Giá xuất xưởng cao hơn từ các nhà sản xuất thép không gỉ Trung Quốc nhờ giá niken tăng đã hỗ trợ thành công cho giá thép cuộn không gỉ austenite giao ngay trên thị trường Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông hồi tháng trước.
Giá có thể giao dịch của HRC 304 3mm và CRC 304 2mm lần lượt là 10.500-11.000 NDT/tấn (1.624-1.702 USD/tấn) và 11.100-11.600 NDT/tấn (1.717-1.795 USD/tấn) hôm 1-4. Mức giá này tăng tương ứng 525 NDT/tấn (81 USD/tấn) và 575 NDT/tấn (89 USD/tấn) so với tháng trước.
Nguyên nhân là do giá niken cao hơn, lượng hàng giao từ các nhà máy chậm lại và tồn kho thị trường thấp bởi vì cắt giảm sản lượng hồi giữa tháng 2 để nghỉ Tết Nguyên đán. Ngoài ra, thị trường đã chứng kiến nguồn cung sụt giảm với việc cắt giảm sản lượng của các nhà máy trong hai tháng đầu năm nay giữa bối cảnh nhu cầu trì trệ vào mùa đông.
Giá có xu hướng đi lên hơn nữa trong tháng này sau khi các nhà sản xuất từ thị trường trong nước tiếp tục tăng giá. Hôm 1-4, Platts định giá giao ngay của CRC 430 2mm cao hơn khoảng 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) so với tháng trước và đạt 6.550-6.600 NDT/tấn (1.013-1.021 USD/tấn).
Quặng sắt: Nhu cầu quặng sắt trì trệ trong gần cả tuần kết thúc ngày 1-4, mặc dù có một số sự hỗ trợ xuất hiện sau đó trong bối cảnh số liệu kinh tế vĩ mô tích cực.
Platts 62% Fe IODEX chốt tại 55,1 USD/dmt hôm thứ Sáu, tăng 40 cents so với thứ Năm. Văn phòng tại Singapore của Platts đóng cửa hôm 25/3/2016 vì lễ Good Friday. Giá tham khảo từ TSI cho quặng 62% Fe giảm từ 55,5 USD/dmt hôm 24/3 xuống mức thấp của tuần với 53,2 USD/dmt do sức mua suy yếu- sau đó tăng 70 cents, tới cuối tuần giá thấp hơn 2,7% và chốt tại 54 USD/dmt.