Châu Á
Phế : Thị trường phế tại Nhật Bản tuần trước trầm lắng mặc dù các nhà phân phối đã quay lại giao dịch sau lễ từ thứ Tư. Tokyo Steel Manufacturing đã giảm giá mua phế lần cuối xuống 500 Yên/tấn (4,9 USD/tấn) tại 3 nhà xưởng áp dụng cho các lô hàng đến từ ngày 03/5 sau khi giữ giá mua kể từ ngày 11/4. Giá mua phế H2 của Tokyo Steel tại xưởng ở Utsunomiya là 32.000 Yên/tấn (314,6 USD/tấn).
Thép không gỉ: Mức giá có thể giao dịch của CRC không gỉ loại 304 dày 2mm xuất xứ Hàn Quốc hôm thứ sáu tiếp tục tăng lên 2.700-2.800 USD/tấn CFR các cảng lớn ở Đông Á và Đông Nam Á, từ mức 2.600-2.650 USD/tấn CFR của tuần trước đó, do các nhà cung cấp nâng chào giá lên theo mức giá cao kỷ lục của niken.
Trung Quốc
Thép tấm: thép tấm Q235 14-20mm được giao dịch phổ biến quanh mức 3.450-3.490 NDT/tấn (552-559 USD/tấn) tại Thượng Hải, giảm 25 NDT/tấn so với giá hồi giữa tháng 04.
Về thị trường xuất khẩu, các thương nhân hàng đầu ở Trung Quốc vẫn đang chào bán thép tấm loại SS400 dày 12-30mm với giá từ 510-520 USD/tấn FOB, không đổi so với tháng 04. Tuy nhiên, một thương nhân ở Thượng Hải cho hay giá có thể thương lượng về mức 500 USD/tấn FOB cho những người thực sự quan tâm mua.
HRC: Hôm thứ Hai, HRC Q235 5.5mm có giá 3.350-3.380 NDT/tấn (538-543 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải, giảm 10 NDT/tấn so với ngày trước đó. Còn giá của loại thép này tại thị trường Lecong (Quảng Đông) vẫn duy trì tại 3.500-3.530 NDT/tấn đã có VAT.
Quặng sắt : IODEX 62% Fe hôm thứ sáu được chốt tại 102,75 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc, giảm 2,4% tức 2,5 USD/dmt so với tuần trước đó. Đây là mức giá thấp nhất kể từ tháng 09/2012.
FeCr : Hôm thứ sáu, Platts định giá giao ngay của ferrochrome hàm lượng cacbon cao xuất xứ từ Ấn Độ (58-60% Cr) và quặng chrome của Nam Phi (48-52% Cr) lần lượt là 83-84 cents/lb CIF Trung Quốc và 82-83 cents/lb CIF Trung Quốc. Các mức giá này không đổi từ ngày 25/4.
Thép không gỉ: Các chào giá CRC loại 304 2B dày 2mm hôm thứ sáu tầm 19.700-20.100 NDT/tấn (3.200-3.265 USD/tấn). Mức này cao hơn so với chào giá 18.400-19.000 NDT/tấn của tuần trước đó. Còn chào giá cùng ngày cho HRC loại 304 dày 3mm là 18.300-18.400 NDT/tấn, tăng so với mức 17.300-17.400 NDT/tấn.
Thép cây : Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm 09/5, giá giao ngay của thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được sản xuất từ nhà máy Hebei Iron & Steel chốt tại 3.240-3.250 NDT/tấn (520-522 USD/tấn) khối lượng thực gồm VAT 17%, giảm thêm 10 NDT/tấn so với thứ năm tuần trước. Trong tuần trước, thị trường đã chứng kiến đà giảm tổng cộng 40-50 NDT/tấn của thép cây.
Tương tự, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 cũng lùi về chạm mốc 3.158 NDT/tấn, đây là mức giá thấp thứ hai sau 3.141 NDT/tấn của tháng 03, trước khi giảm 0,41%.
Đông Nam Á: Người mua đang đưa ra giá 525-530 USD/tấn CFR Đông Nam Á, giảm từ mức 530-535 USD/tấn CFR của tuần kết thúc ngày 21/4.
Hàn Quốc
Cuộn trơn: Posco SS đã tăng giá tháng 05 lên thêm 200.000 Won/tấn (195 USD/tấn) so với giá tháng trước nhưng lại duy trì giá cho các loại thép 400-series. Tuy Posco SS không tiết lộ giá bán nhưng theo các nguồn tin trong ngành ước tính thì giá cơ bản mới cho cuộn trơn loại 300-series sẽ từ 3.8-3.9 triệu Won/tấn (3.712-3.810 USD/tấn).
Ấn Độ
HDG: Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ sụt giảm trong lúc thị trường trong nước im ắng. Hôm thứ Sáu, Platts định giá giao dịch cho thép cuộn phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông dày 0.3mm tại 840-850 USD/tấn CFR East Coast Mỹ, trong đó phí vận chuyển cỡ 50-60 USD/tấn cho những lô hàng giao tháng 06. Mức giá này thấp hơn 50 USD/tấn so với tuần trước đó.
Châu Âu
Thép cuộn: ArcelorMittal đã thông báo tăng giá tất cả các mặt hàng thép cuộn mạ và không mạ thêm 20 Euro/tấn. Gía tăng này được áp dụng cho các hợp đồng 6 tháng được thảo luận trong vài tuần tới.
Các nhà máy Ý cũng có đọng thái tăng giá thép với giá chào bán HRC hiện tại là 420-430 Euro/tấn DDP.Platts vẫn duy trì giá HRC nội địa Bắc Âu tại mức 425-435 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Mỹ
Thép cây: Nhà máy Gerdau Long Steel North America đã tăng giá thép cây thêm 20 USD/tấn đối với lô hàng giao ngày 2/6 . Gía bán thép cây cho các khách hàng Southeast đạt mức 630-640 USD/tấn xuất xưởng trước khi tăng thêm 20 USD/tấn.