Đông Nam Á
Thép cây: Thép cây trong nước đang được giao dịch phổ biến với giá từ 6.700-6.800 Rupiah/kg (588-597 USD/tấn) trong tuần này, chưa có thuế, xuất xưởng từ nhà máy Indonesia, giảm từ mức 7.400-7.500 Rupiah/kg của tháng trước.
Trung Quốc
HRC: HRC Q235 5.5mm được giao dịch với giá khoảng 3.310-3.360 NDT/tấn (539-547 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải, không đổi so với ngày trước đó. Trong khi đó, giá của loại thép này tại Lecong (Quảng Đông) là 3.350-3.390 NDT/tấn đã có VAT, tăng 10 NDT/tấn so với thứ Tư.
Tại thị trường xuất khẩu, trong khi một số nhà máy giữ chào giá cho HRC SS400B từ 3.0mm trở lên duy trì từ 520-525 USD/tấn FOB, thì số khác lại ngụ ý rằng các giao dịch có thể thương lượng ngầm với giá 515 USD/tấn FOB.
Thép cây: Giá thép cây ở miền bắc Trung Quốc đã ngừng giảm hôm thứ Năm sau khi để mất gần 100 NDT/tấn từ thứ hai và bắt đầu chuyển hướng tăng nhẹ. Tại thị trường giao ngay Bắc Kinh, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được sản xuất từ nhà máy Hebei Iron & Steel (Hegang) được chốt tầm 3.150-3.160 NDT/tấn đã có VAT.
Sự phục hồi của giá hợp đồng thép cây giao sau đã giúp giá giao ngay mạnh lên. Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 trên sàn SHFE tăng 0,92% lên 3.284 NDT/tấn.
Trong hki đó, các chào giá tới Hong Kong của thép cây trọng lượng thực tế xuất xứ Trung Quốc vẫn tương đối ổn định từ tuần trước tầm 500-505 USD/tấn CFR, phí vận chuyển bình quân 15 USD/tấn. Chào giá thép cây đường kính từ 16mm trở lên đã giảm còn 485-490 USD/tấn CFR Singapore tính theo trọng lượng lý thuyết nhưng có rất ít người mua.
Nhật Bản
Thép dầm: thép dầm hình H SS400 cỡ lớn tại Tokyo dao động từ 83.000-84.000 Yên/tấn (807-817 USD/tấn), tăng 1.000 Yên/tấn trong tháng qua. Như đã đưa tin, NSSMC gần đây nhất đã tăng giá thép dầm hình H bán trong nước cho những hợp đồng tháng 01 lên thêm 2.000 Yên/tấn.
Mỹ
Tấm mỏng: Theo các nguồn tin cho hay, giá giao dịch trên thị trường tấm mỏng Mỹ gần đây phổ biến ở mức 20-630 USD/tấn. Do đó, các nhà máy thép tích hợp Mỹ đã thiết lập giá sàn cho tấm mỏng và đang tìm cách nâng giá trong bối cảnh giá phế tương đối bình ổn.
Phế: Giá chào bán lô hàng phế HMS I/II (80:20 ) khối lượng nhỏ sang Đài Loan tuần này đã tăng lên mức 345-348 USD/tấn CFR Đài Loan sau khi giá giao dịch đạt mức 342-343 USD/tấn CFR Đài Loan trong tuần qua. Tuy nhiên, các đàm phán đã đi vào bế tắc do người mua muốn chờ xem xu hướng sắp tới.
Thổ Nhĩ Kỳ
Thép cây: Trong tuần này, thị trường xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ diễn ra trầm lắng do giá chào bán 565-570 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế từ các nhà máy không nhận được mối quan tâm từ người mua Trung Đông và Bắc Phi.
Thép dẹt: Giá chào bán của các nhà máy trong nước đối với HRC giao tháng 4 hiện là 565-580 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá từ các nhà môi giới đạt mức 585-595 USD/tấn. Gía xuất khẩu cũng vẫn ổn định ở mức 560-570 USD/tấn kể từ đầu tháng 3.
Trong khi đó, sức mua suy yếu cũng ảnh hưởng tới thị trường CRC nội địa với giá chào CRC giảm xuống mức thấp 680 USD/tấn xuất xưởng. Gía chào xuất khẩu là 670 USD/tấn FOB.
Thép mạ: Các nhà máy đang chào bán PPGI 9002 0.5mm tại mức giá 890-920 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào xuất khẩu là 870-880 USD/tấn FOB, cả 2 giá đều không đổi so với tuần trước. Mặc dù công suất sản xuất quá mức đã gây áp lực tới giá HDG, tuy nhiên, loại 0.5mm vẫn có giá ổn định tại mức 780-790 USD/tấn xuất xưởng trong khi laoij 1mm là 750-760 USD/tấn xuất xưởng. Gía chào xuất khẩu HDG 0.5mm là 770-780 USD/tấn FOB.
Phế: Hầu như các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đều đã tăng giá thu mua phế DKP do giá nhập khẩu tăng từ đồng Lira suy yếu. Nhà máy Erdemir tăng giá mua thêm 20 TRY/tấn, đạt mức 820 TRY/tấn (368 USD/tấn). Nhà máy Asil Celik cũng đồng thời tăng giá mua thêm 25 TRY/tấn, đạt mức 790 TRY/tấn (355 USD/tấn) trong khi Colakoglu giữ nguyên giá mua tại mức 745 TRY/tấn (335 USD/tấn) kể từ ngày 26/2. Tuy nhiên, Kardemir lại đi ngược xu hướng trên khi giảm giá xuống 40 TRY/tấn, còn 815 TRY/tấn (366 USD/tấn).
Châu Âu
Thép cây: Một nhà môi giới Pháp chào bán thép cây Bắc Âu tại mức 210-220 Euro/tấn xuất xưởng, nhưng không có người mua.
Thép cây Tây Ban Nha cũng đang chịu áp lực từ giá phế suy yếu và nhu cầu mua hàng thấp trong 2 tháng qua. Gía giao dịch trong nước là 170 Euro/tấn xuất xưởng (420-430 Euro/tấn giá giao thực tế).