EU
HRC: Platts duy trì định giá HRC Bắc Âu ở mức 420-440euro/tấn xuất xưởng Rurh thứ Sáu tuần trước.
Các nhà máy Bắc Âu được cho nghe nói là đang chào giá ở mức 450euro/tấn. Các nhà sản xuất Nam Âu được nghe nói đang chào giá 420euro/tấn xuất xưởng, trong khi giá nhập khẩu từ khu vực ngoài tiếp tục khan hiếm.
Thép ống hàn: Giá ống hàn châu Âu đã tăng trung bình 80-100euro/tấn mỗi tháng, kích hoạt bởi xu hướng tăng lên nhanh chóng của giá thép cuộn.
Mức tăng này gần với đà tăng được nhìn thấy trong giá thép cuộn, mặc dù không nhanh. "Chúng tôi đã nhìn thấy một sự hồi phục của giá thép ống, nhưng di chuyển chậm hơn so với giá thép cuộn, nhưng điều này là bình thường đối với một sản phẩm thép đã được xử lý, nhưng chúng tôi kiểm soát để đạt được 3-4 điểm cơ bản trong một tuần", một nguồn tin tại một nhà máy cho biết.
Thổ Nhĩ Kỳ
Thép cây: Platts định giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 488usd/tấn thứ Sáu, ổn định từ thứ Năm. Niềm tin thị trường tiếp tục trì trệ do giá thép Trung Quốc, nhưng không thấy có sự thay đổi trong giá đàm phán. Không có giao dịch, giá mua hay giá chào mới được nghe nói đến trên thị trường và thị trường Thổ Nhĩ Kỳ khá trầm lắng.
Tấm mỏng: Mặc dù tâm lý lạc quan mờ dần tại thị trường thép cuộn cán nóng và lạnh của Thổ Nhĩ Kỳ, người mua đang chờ đợi một số điều chỉnh giá giảm từ các nhà máy địa phương, giá niêm yết trong nước phần lớn vẫn ổn định trong tuần qua, ngoại trừ giảm giá nhẹ cho đơn hàng lớn, nguồn tin công nghiệp cho biết.
Chào giá HRC ở thị trường trong nước mức 570-590usd/tấn xuất xưởng hôm thứ Sáu, trong khi giá CRC là trong khoảng 670-690usd/tấn.
Do giá HRC trong nước ngừng tăng nên giá niêm yết HDG của các nhà máy phần lớn cũng vẫn ổn định trong tuần qua. Chào giá của các nhà sản xuất hàng đầu cho HDG dày 0.5mm ổn định trong khoảng 740-760usd/tấn xuất xưởng, trong khi chào giá trong nước cho PPGI 9002 dày 0.5mm ở mức 840-860usd/tấn xuất xưởng hôm thứ Sáu, tùy thuộc vào điều khoản thanh toán và khối lượng.
Phế: giá thu mua phế của các nhà máy trong nước đã giảm trong tuần trước. Cụ thể, Colakoglu, và nhà sản xuất thép hợp kim Asil Celik đều giảm giá mua đáng kể vào ngày thứ Sáu thêm 30-80 TRY (10-27usd)/tấn, còn 715 TRY(241usd)/tấn và 730 TRY (246usd)/tấn tương ứng. Iskenderun thuộc tập đoàn Erdemir cũng đã giảm giá mua đối với phế DKP thêm 65TRY(22usd)/tấn còn 730TRY (246usd)/tấn, trong khi nhà máy Eregli cũng cắt giảm giá mua thêm 50TRY(17usd)/tấn còn 760TRY (256usd)/tấn vào thứ Sáu. Kardemir cũng giảm giá mua đối với phế DKP 80TRY (27usd)/tấn còn 700TRY (236usd)/tấn vào cuối tuần trước, trong khi các nhà sản xuất thép khác cũng đi theo sự sụt giảm mạnh trong thị trường.
Giá mua phế DKP trong nước của các nhà sản thép lò điện hồ quang dựa trong phạm vi của 700-750 TRY (236-253usd)/tấn vào thứ Sáu, tùy thuộc vào khu vực và yêu cầu các nhà máy.
Phế nấu chảy tàu cũ được chào giá đến các nhà máy ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Habas, IDC, Ege Celik, Cebitas) ở mức 250-260usd/tấn vào thứ Sáu, giảm mạnh khoảng 30usd/tấn trong tuần.
CIS
Phôi tấm: Mặc dù mức giảm liên tục của phôi thanh Biển Đen, thị trường phôi tấm đã không đi theo hướng này làm theo, và thực sự đã tăng nhẹ trong tuần qua trong bối cảnh nguồn cung thắt chặt.
Giá bán mới nhất của phôi tấm đến châu Âu từ các nhà máy của Nga và Ukraine đã được thực hiện ở mức 390-395usd/tấn FOB Biển Đen. Giá bán gần đây của phôi tấm Brazil đến Indonesia được nghe ký kết tại 416usd/tấn CFR, tương đương với 395usd/tấn FOB Brazil. Platts tăng định giá phôi tấm hàng tuần lên mức 385-395usd/tấn FOB Biển Đen, tăng 7,50usd/tấn trong tuần.
Phôi thanh: Platts định giá ngày phôi thanh xuất khẩu của CIS ở mức 390usd/tấn FOB Biển Đen, giảm 5usd/tấn trong ngày.
Chào giá phôi thanh CIS đang dần rơi xuống nhưng vẫn không đủ để thu hút được nhiều đơn đặt hàng. Phạm vi của giá chào bán vào cuối tuần trước là 380-410usd/tấn FOB Biển Đen. Nhưng người mua phần lớn không tham gia, mặc dù một số hàng hóa đã được bán ngắn bởi các thương nhân ở mức giá khoảng 360usd/tấn FOB Biển Đen. Hầu hết mọi người đều tỏ ra bi quan hơn và dự đoán giảm giá hơn nữa.
Mỹ
Tấm mỏng: Giá thép cuộn cán nóng và cán nguội không đổi vào ngày thứ Sáu. Platts duy trì giá HRC và CRC hàng ngày tại 600-620usd/tấn ngắn và 800-820usd/tấn ngắn,; đều theo giá xuất xưởng Midwest (Indiana).
Đà đi lên của giá thép cán dẹt giảm dần trong tuần trước sau khi tăng nhanh trong tuần trước đó. Tuần đầu tiên của tháng 05 chứng kiến giá HRC nhảy từ một mức trung bình 550usd/tấn ngắn lên đến 605usd/tấn ngắn, mức tăng 10%. Tuy nhiên, trong suốt tuần trước giá HRC chỉ tăng 5usd/tấn ngắn.
Cuộn trơn: Giá cuộn trơn Mỹ giao tháng 06 cao hơn dường như là không thể tránh khỏi, nhưng nó có thể sẽ mất một thời gian trước khi toàn bộ mức tăng của phía nhà máy được áp dụng, nguồn tin cho biết hôm thứ Sáu.
Ba hãng sản xuất cuộn trơn lớn của Mỹ đã thông báo tăng giá trong tuần qua. Gerdau cho biết tăng giá giao dịch 40usd/tấn ngắn, có hiệu lực với giao hàng ngày 01/06 và Keystone Steel & Wire công bố tăng giá cuộn trơn 30usd/tấn. Nucor thông báo mức tăng 20usd/tấn ngắn cho cuộn trơn carbon thấp và 30usd/tấn ngắn cho cuộn trơn carbon cao. Platts duy trì định giá tuần cuộn trơn dạng lưới Mỹ 500-530usd/tấn ngắn xuất xưởng thứ Sáu.
Nhật Bản
Thép dầm hình H: NSSMC đã quyết định sẽ tăng giá trong nước cho thép dầm hình H lên 5.000 Yên/tấn (46 USD/tấn) đối với những hợp đồng tháng 5 (sản xuất tháng 6). Đây là lần tăng giá đầu tiên của nhà máy kể từ tháng 01/2014 khi công ty tăng thêm 2.000 Yên/tấn. Phát ngôn viên NSSMC cho biết tình hình thị trường đang cải thiện và nhu cầu thép dầm hình H được cho là sẽ tăng từ quý tới.
NSSMC không tiết lộ giá niêm yết của mình nhưng giá trên thị trường hiện nay cho thép dầm hình H SS400 cỡ lớn ở Tokyo là khoảng 70.000-71.000 Yên/tấn (642-651 USD/tấn), không đổi so với 1 tháng trước.
Trong khi đối thủ cạnh tranh- Tokyo Steel Manufacturing- cũng đã tăng giá niêm yết cho thép dầm hình H cỡ lớn lên 5.000 Yên/tấn cho những hợp đồng tháng 5 lên 72.000 Yên/tấn. Nippon Steel & Sumikin Shapes cũng sẽ tăng giá thép dầm hình H cho tháng 5 lên 5.000 Yên/tấn.
Tấm mỏng: NSSMC đã quyết định sẽ tăng giá trong nước cho các sản phẩm tấm mỏng, trong đó có HRC, pickled và oiled. CRC và thép mạ để giao ngay, và cho các doanh nghiệp cấp II trong đó có các nhà sản xuất ống thép, lên trung bình 10.000 Yên/tấn (92 USD/tấn) tức khoảng 20% từ những lô hàng giao tháng 6.
Giá hiện nay cho HRC loại SPHC để bán giao ngay là khoảng 44.000-45.000 Yên/tấn, vì vậy các nhà máy liên hợp từ tháng 6 sẽ đặt mục tiêu nâng giá lên tầm 54.000-55.000 Yên/tấn (495-505 USD/tấn).
Châu Á
Thép không gỉ: Giá giao dịch của CRC không gỉ loại 304 2B 2mm Đài Loan và Hàn Quốc vẫn duy trì mức 1.800-1.850 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á hôm thứ Sáu. Các thương nhân trong khu vực cho biết một số chào giá cao đã biến mất sau khi niken một lần nữa rớt dưới mốc 9.000 USD/tấn.
Tính tới ngày thứ Sáu, chào giá từ Đài Loan là khoảng 1.850 USD/tấn CFR, vì một số chào giá được nhìn thấy ở mức cao 1.900 USD/tấn CFR hồi đầu tuần trước do niken tăng giá, đã bị hạ xuống. Thêm vào đó, giá cũng bị ảnh hưởng tiêu cực bởi thị trường thép không gỉ Trung Quốc suy yếu.
Thép cây: Hôm 13/5, giá giao ngay cho thép cây ở Châu Á tiếp tục đà lao dốc trong ngày thứ ba liên tiếp giữa bối cảnh sức mua trì trệ, khi khách hàng bị hoảng sợ trước sự suy yếu nhanh của giá tại thị trường Trung Quốc.
Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm giảm 5 USD/tấn so với ngày trước đó xuống 349-353 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Như vậy giá đã giảm tổng cộng 40,5 USD/tấn trong tuần qua.
Phôi thanh: Sự suy yếu của phôi thanh Trung Quốc trong tuần trước đã khiến cho hầu hết người mua ở Đông Á rời xa thị trường chờ cho tới khi giá bình ổn trở lại. Ngoài việc sợ giá có thể sẽ giảm sâu hơn, thì người mua cũng không tin các nhà cung cấp sẽ thực hiện giao hàng nếu như thị trường phục hồi.
Hôm 13/5, Platts giảm định giá nhập khẩu cho phôi thanh 120/130mm Đông Á xuống 330-340 USD/tấn CFR, từ 380-390 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Mức giá trung bình 335 USD/tấn CFR, thấp hơn tới 50 USD/tấn so với tuần trước.
Chào giá cho phôi thanh Q275 120/130mm giao tháng 7 phổ biến ở mức 345 USD/tấn CFR, giảm khoảng 40 USD/tấn so với tuần trước đó.
HDG: Giá xuất khẩu của HDG đã rớt nhanh trong nửa đầu tháng này cùng với thị trường trong nước. Tuy nhiên, điều này đã không kích thích nhu cầu vì người mua sợ giá sẽ giảm nhiều hơn nữa.
Chào giá phổ biến cho HDG DX51D dày1.0mm, phủ 120 grams trên một mét vuông, từ các nhà sản xuất lớn là khoảng 540-560 USD/tấn FOB, giảm từ 610-625 USD/tấn FOB hồi đầu tháng 5. Tuy nhiên, các thương nhân cho biết mức giá này vẫn còn quá cao để hấp dẫn đơn đặt hàng từ nước ngoài.
HRC: Hôm thứ Sáu, giá giao ngay của HRC ở Châu Á giảm trong ngày thứ hai liên tiếp do niềm tin và thị trường Trung Quốc suy yếu. Người bán đã âm thầm hạ chào giá vì nhu cầu hạn chế.
Platts định giá HRC SS400 3.0mm ở mức 380-385 USD/tấn, mức trung bình 382,5 USD/tấn, giảm 6 USD/tấn so với ngày trước đó. Thép cuộn cùng loại được định giá 388-393 USD/tấn CFR Đông Á, giảm 33,5 USD/tấn so với tuần trước đó.
Trung Quốc
Quặng sắt: Thị trường quặng sắt nhập khẩu đã suy yếu đáng kể trong tuần trước khi sự biến động cực lớn trong giá phôi thanh và hợp đồng giao sau ở Trung Quốc đã làm hạn chế nhu cầu. Platts 62% Fe IODEX được định giá thấp hơn 4,9 USD/dmt so với tuần trước đó xuống 53,45 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc.
Người mua do dự để cam kết các lô hàng giao ngay vì họ dự báo giá sẽ còn giảm nữa, do xu hướng lao dốc bao trùm khắp thị trường thép.
Thép không gỉ: Giá CRC 304 giao ngay trong tuần trước đã liên tục giảm với tổng cộng 650 NDT/tấn (100 USD/tấn). Nhưng không có nhiều thay đổi với chào giá của các thương nhân vì nhà máy vẫn giữ giá của họ tương đối ổn định.
Chào giá cho CRC 304 2B 2mm được sản xuất từ các nhà máy Trung Quốc hàng đầu vẫn ở khoảng 1.800-1.850 USD/tấn FOB. Nhưng việc chốt được giao dịch ở mức này là rất khó và một vài đợt suy yếu nữa được dự báo trong nửa cuối tháng này.
Thép cây: Bất chấp những nỗ lực của Hebei Iron & Steel để thực hiện giá sàn nhằm hỗ trợ thị trường giao ngay trong nước nhưng các đại lý ở Bắc Kinh buộc phải bí mật hạ giá để thúc đẩy đơn đặt hàng trong bối cảnh sức mua trì trệ.
Tại thị trường Bắc Kinh hôm thứ Sáu, Platts định giá thép cây HRB400 đường kính 18-25mm ở mức 2.370-2.390 NDT/tấn (363-367 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế, gồm 17% VAT, giảm 105 NDT/tấn so với ngày trước đó.
Các nhà máy Trung Quốc đã hạn chế đưa ra chào giá cố định, vì hầu như không ai muốn đặt mua do giá rớt mạnh.
Phôi thanh: Giá niêm yết cho phôi thanh ở thành phố Đường Sơn đã giảm vào cuối ngày thứ Sáu xuống tới 70 NDT/tấn (11 USD/tấn) còn 1.880 NDT/tấn (288 USD/tấn), sau khi rớt 50 NDT/tấn vào ngày trước đó. Như vậy trong tuần qua giá đã giảm tổng cộng 350 NDT/tấn (54 USD/tấn) so với 2.230 NDT/tấn của ngày 6/5.
Giá sụt giảm cũng khiến tồn kho phôi tăng ở Đường Sơn trong tuần trước. Theo Mysteel, tồn kho phôi ở Đương Sơn là 232.000 tấn tính tới ngày 12/5, cao hơn 20,2% so với tuần trước. Như vậy, cho tới tháng này, phôi thanh tồn kho ở Đường Sơn đã tăng 3%, từ 225.000 tấn của ngày 28/4.
HDG: Tại thị trường Thượng Hải hôm 16/5, HDG DX51D 1.0mm được giao dịch phổ biến ở mức 3.940-4.140 NDT/tấn (604-635 USD/tấn), gồm 17% VAT, giảm 135 NDT/tấn so với đầu tháng 5.
HRC: Giá HRC giao ngay ở thị trường Thượng Hải đã sụt giảm 80-100 NDT/tấn (12-15 USD/tấn) hôm thứ Sáu cùng với đà suy yếu của hợp đồng tương lai. Giá rớt liên tục khiến người mua vẫn ở bên lề và dẫn đến thị trường rất trầm lắng.
Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở mức 2.580-2.600 NDT/tấn gồm 17% VAT, mức trung bình 2.590 NDT/tấn, giảm 80 NDT/tấn so với ngày trước đó. Cũng trong ngày thứ Sáu trên sàn Shanghai Futures Exchange, hợp đồng HRC giao tháng 10 chốt tại 2.195 NDT/tấn, thấp hơn 92 NDT/tấn so với ngày trước đó.