Thổ Nhĩ Kỳ
HDG: Mặc dù nhu cầu tiêu thụ tại thị trường thép cuộn mạThổ Nhĩ Kỳ vẫn trì trệ trong tuần trước, trong bối cảnh tỷ giá hối đoái biến động mạnh, các chào giá nhập khẩu mới nhất đến Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng mạnh và vượt quá giá địa phương.
Chào giá của các nhà máy trong nước cho thị trường nội địa cho HDG dày 0.5mm vẫn trong khoảng 630-650usd/tấn xuất xưởng thứ Sáu, trong khi giá HDG dày 1mm ở mức 570-590usd/tấn. Chào giá trong nước của các nhà máy cho PPGI 9002 dày 0.5mm cũng tương đối ổn định ở mức 720-740usd/tấn xuất xưởng thứ Sáu. Nhu cầu xuất khẩu tiếp tục duy trì tốt hơn so với nhu cầu trong nước.
Thép cây: Sự sụt giảm giá liên tục của đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ và chi phí đầu vào tăng cao, trong bối cảnh giá phế và phôi thanh trong nước và nhập khẩu cải thiện mạnh mẽ, đã kéo giá thép dài trong nước của Thổ Nhĩ Kỳ tăng lên đáng kể suốt tuần qua.
Icdas và Kardemir tái mở bán thép cây cho thị trường nội địa trong tuần trước với giá cao hơn, trong khi các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ chủ yếu khác cũng tăng giá niêm yết đáng kể. Icdas tăng giá bán thép cây đường kính 12-32mm 20 TRY (6,5usd)/tấn lên mức 1.196 TRY (388usd)/tấn xuất xưởng cho Istanbul, trong khi Kardemir thiết lập giá bán mới thép thanh cây ở mức 1.172 TRY (380usd)/tấn xuất xưởng, tăng 37 TRY (12usd)/tấn so với giá niêm yết trước đó, cả hai giá không bao gồm 18% VAT.
Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 372,50usd/tấn FOB thứ Sáu, tăng 6usd/tấn trong ngày.
Châu Âu
Thép tấm: Thị trường thép tấm Bắc Âu vẫn đang dự đoán sẽ tăng giá sau thông báo gần đây của thuế chống bán phá giá sơ bộ khoảng 70-73% áp đặt lên hàng nhập khẩu của Trung Quốc. Trong khi các nhà máy phía Bắc vẫn đang định giá mức mà họ sẽ kéo giá tăng lên, một nhà cán lại Italy đã quyết định tăng giá chào.
Platts định giá hàng ngày đối với giao dịch nghe nói ở mức giá cao nhất trong phạm vi này. Đánh giá nhập khẩu thay đổi ở mức 420-430euro/tấn CIF Antwerp, tăng 10euro/tấn. Thị trường nhập khẩu vẫn yên ắng với các hoạt động hạn chế, với chào giá mới nhất nghe nói từ Ukraine ở mức 400euro/tấn CIF Nam Âu và vật liệu của Ấn Độ chào giá tại mức 470euro/tấn CIF Nam Âu.
HRC: Platts duy trì định giá HRC Bắc Âu ở mức 450-460euro/tấn xuất xưởng Ruhr thứ Sáu. Thị trường vẫn trầm lắng, với các nhà máy vui vẻ giữ giá không đổi và người tiêu dùng sẵn sàng để chờ giá ổn định. Chào giá từ các nhà máy châu Âu đã khẳng định không thay đổi ở mức 480euro/tấn, mặc dù vật liệu này được cho là có giá 450-460euro/tấn. Platts định giá nhập khẩu châu Âu tại mức 420-430euro/tấn CIF Antwerp.
Phế: Thị trường phế Tây Bắc châu Âu đã tiếp tục quỹ đạo đi xuống, với giá chốt hàng tháng giảm mạnh hơn nữa trong tháng 10 trong bối cảnh giá xuất khẩu suy yếu. Các nguồn tin ở Đức báo cáo giá chốt tháng 10 đã giảm 10-15euro/tấn so với tháng trước đó. Platts định giá hàng tháng phế vụn Bắc Âu còn 170-180euro/tấn đã giao, giảm 15 euro/tấn so với tháng trước.
CIS
Thép cuộn: Các nhà máy Nga đã duy trì chào giá xuất khẩu thép cuộn cán nóng ổn định ở mức 410usd/tấn FOB Biển Đen trong tuần trước, trong khi các nhà máy Ukraine đã kéo giá lên mức 400-405usd/tấn.
Mặc dù không có doanh số bán HRC nguồn gốc Ukraina được nghe nói, các thương nhân cho rằng phạm vi khả thi mới là 390-400usd/tấn FOB Biển Đen. Tâm lý thị trường thép cuộn CIS hiện đang tươi sáng do giá xuất khẩu thép cuộn cán nóng của Trung Quốc tăng, và chi phí do đầu vào tăng vọt chủ yếu là từ mức giá tăng của than cốc.
Phôi thanh: Giá phôi thanh Biển Đen tiếp tục tăng lên trong tuần trước, mặc dù giá tăng có thể không duy trì bền vững trong tương lai. Platts định giá ở mức 320usd/tấn FOB Biển Đen thứ Sáu, ổn định trong ngày nhưng tăng 7usd/tấn trong tuần.
Mỹ
HRC, CRC: Sự suy giảm của giá HRC Và CRC của Mỹ đã tiếp tục vào thứ Sáu do chào giá nhà máy và giá giao dịch thấp hơn. Platts hạ định giá HRC và CRC hàng ngày còn 480-500usd/tấn ngắn, giảm từ mức 490-500usd/tấn ngắn, và 700-720usd/tấn ngắn, giảm từ mức 710-730usd/tấn ngắn, tương ứng. Cả hai định giá này được chuẩn hóa theo cơ sở giá xuất xưởng Midwest (Indiana).
Cuộn trơn: Giá cuộn trơn tiếp tục giảm do giá mua phế thấp hơn trong tháng Mười. Sự sụt giảm giá phế đang gây sức ép lên các nhà máy cuộn trơn và hầu hết đang phản ứng cho phù hợp, một nhà sản xuất cuộn trơn cho biết. Giá phế obsolete giao dịch ở mức giảm 20usd/tấn dài ở hầu hết các khu vực trong khi đó phế priem giảm 30usd/tấn dài trong tuần mua tháng Mười. Nhu cầu tiêu thụ thường chậm vào thời điểm này của năm do định mức theo mùa, nhưng suy thoái hiện nay đã mạnh mẽ hơn so với dự kiến.
Platts hôm thứ Sáu hạ định giá cuộn trơn dạng lưới hàng tuần còn 460-480usd/tấn ngắn, giảm từ mức 470-490usd/tấn ngắn.
Nhật Bản
Thép dầm hình H: NSSMC sẽ duy trì giá thép dầm hình H trong nước cho những hợp đồng tháng 10 (sản xuất tháng 11). Mức tăng 5.000 Yên/tấn (48 USD/tấn) của nhà máy được công bố vào đầu năm nay cho những hợp đồng tháng 5 vẫn chưa được thị trường chấp nhận. NSSMC đã bắt đầu thương lượng với các nhà thầu về việc chấp nhận mức tăng thêm 10.000 Yên/tấn cho thép dầm hình H bán tới các dự án.
NSSMC không bao giờ tiết lộ giá niêm yết cho bất kỳ sản phẩm nào nhưng giá thị trường hiện nay của thép dầm hình H cỡ lớn ở Tokyo là khoảng 68.000-69.000 Yên/tấn (655-665 USD/tấn), không đổi so với 1 tháng trước đó nhưng giảm 2.000 Yên/tấn so với tháng 5.
Châu Á
CRC không gỉ: Giá CRC không gỉ loại 304 2mm 2B xuất xứ từ Đài Loan và Hàn Quốc đã tăng 35 USD/tấn trong tuần trước lên 1.850-1.950 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á. Giá tăng chủ yếu là do giá nguyên liệu cao hơn chẳng hạn như nickel và ferrochrome.
Thép cây: Thị trường thép cây Châu Á lên cao hơn hôm thứ Sáu khi các nhà xuất khẩu Trung Quốc nâng chào giá vì giá giao sau trong nước tiếp tục tăng, và chi phí nguyên liệu cao hơn. Tuy nhiên, nhu cầu teo tóp vì người mua không nghĩ là giá sẽ tiếp tục đà tăng.
Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 331-333 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, tăng 3 USD/tấn so với ngày trước đó.
Phôi thép: Giao dịch phôi thép nhập khẩu trên thị trường Đông Nam Á thưa thớt, vì các nhà cung cấp Trung Quốc nâng chào giá sau lễ Quốc khánh. Chào giá cho phôi thép 120/130mm Q275 từ Trung Quốc đang phổ biến ở mức 350-355 USD/tấn CFR Manila hôm thứ Sáu. Hầu hết cho biết họ không nghe nói bất cứ đơn hàng nào được thực hiện, mặc dù một số người nghe nói khoảng 5.000 tấn Q235 được đặt mua vào giữa tuần có giá 335 USD/tấn CFR Batangas, giao tháng 12.
Platts định giá nhập khẩu phôi thép 120/130mm hàng tuần ở mức 340-345 USD/tấn CFR, tăng từ 335-340 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Mức giá trung bình 342,5 USD/tấn, cao hơn 5 USD/tấn so với tuần trước đó.
HRC: Thị trường HRC Châu Á ổn định trong ngày thứ Sáu giữa bối cảnh thị trường Trung Quốc tăng. Platts định giá SS400 HRC 3.0mm ở mức 380-383 USD/tấn FOB, bằng với ngày trước đó. Thép cuộn cùng loại được định giá 390-393 USD/tấn, tăng 16 USD/tấn so với tuần trước.
Trung Quốc
Quặng sắt: Thị trường quặng sắt nhập khẩu đã hồi phục trong tuần trước vì các nhà máy tái tích trữ nguyên liệu sau Tuần Lễ Vàng. Platts 62% Fe IODEX được định giá cao hơn tuần trước đó 2,7 USD/dmt còn 57,55 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc. Tuy nhiên, triển vọng cho quý 4 khá u ám, vì thời tiết mùa đông làm cản trở hoạt động xây dựng cũng như cơ sở hạ tầng của Trung Quốc- cùng với chi phí than đá cao cũng gây sức ép lên lợi nhuận của nhà máy.
Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã siết chặt chính sách tiền tệ và kiểm soát tín dụng càng làm nghiêm trọng hơn sự bi quan về thị trường thép.
HRC: Tại thị trường Thượng Hải, Q235 5.5mm HRC có giá 2.830-2.850 NDT/tấn (421-424 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, cao hơn ngày trước đó 25 NDT/tấn.