Nhật Bản
Thép tấm: Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp đã tăng giá tấm dày thêm 3.000 Yên/tấn (27 USD/tấn) cho các hợp đồng tháng 10. Hồi đầu năm, NSSMC đã tăng giá tấm dày thêm 5.000 Yên/tấn cho các hợp đồng giao tháng 4 do chi phí đầu vào tăng. Với lần tăng này, tổng mức tăng kể từ tháng 6/2016 tới nay là 23.000 Yên/tấn.
Trung Quốc
Quặng sắt: Trong ngày thứ sáu (15/9), trung tâm sản xuất thép Hà Bắc nhận được chỉ đạo trực tiếp chính thức về cắt giảm sản lượng thép xuống một nửa trước Kỳ họp Quốc hội khóa 19 diễn ra vào ngày 18/10. Điều này kéo giá quặng IODEX chứa 62% sắt giảm 2.30 USD/tấn xuống 71.70 USD/tấn CFR bắc Trung Quốc.
Than đá: Platts giảm giá than đá HCC chất lượng xuống 2.25 USD/tấn còn 206.50 USD/tấn FOB vào thứ Sáu tuần trước, trong khi giá giao tới Trung Quốc giảm 16 USD/tấn xuống 203 USD/tấn CFR Trung Quốc.
Thép cây: Hầu hết các nhà máy Trung Quốc giữ giá chào bán ở mức cao hoặc từ chối chào giá dù thực tế giá giao ngay và kỳ hạn đều suy yếu. Một nhà máy ở miền đông giữ giá chào thép cây 10-400mm tại mức ổn định 580 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế giao tháng 11.
HRC: HRC Q235 5.5mm giao ngay tại Thượng Hải xuống 20 NDT/tấn còn 4.170-4.190 NDT/tấn (638-641 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.
Tại sàn giao kỳ hạn, hợp đồng HRC giao tháng 1 chốt giảm 13 NDT/tấn còn 4.605 NDT/tấn.
Mặc dù giá nội địa giảm, nhưng các nhà máy xuất khẩu giữ nguyên giá chào bán ở mức 600 USD/tấn FOB cho HRC SS400.
Mỹ
Thép cây: Giá giao dịch thép cây đông nam Mỹ tăng trong ngày thứ sáu nhờ thị trường chấp nhận mức tăng gần đây.
Platts tăng giá thép cây Southeast từ 540-560 USD/tấn lên 550-560 USD/tấn xuất xưởng trong ngày thứ tư.
Thép dây: Nhà máy Keystone Steel & Wire của Mỹ đã tăng giá thép dây thêm 40 USD/tấn dựa vào sự thiếu hụt nguồn cung điện cực toàn cầu dẫn tới giá nguyên liệu này tăng.
Giá tăng áp dụng cho các lô hàng giao từ ngày 02/10.
Tấm mỏng: Thị trường tấm mỏng Mỹ bắt đầu có dấu hiệu suy yếu, thậm chí là HRC vốn là mặt hàng tấm mỏng mạnh nhất trong 3 loại.
Nhiều nhà máy đã giảm giá chào HRC xuống 620 USD/tấn tuần này từ mức 640 USD/tấn. CRC và thép mạ ở mức 820 USD/tấn nhưng một nhà máy sẵn sàng bán giá 780 USD/tấn.
Tấm dày: Mặc dù các nhà máy nỗ lực tăng giá, giá giao ngay tấm dày Mỹ giảm 10 USD/tấn và xu hướng giá tiếp tục suy yếu dựa vào tiêu thụ thấp.
Platts giảm giá tấm dày thương phẩm A36 Mỹ từ 670-690 USD/tấn xuống còn 660-680 USD/tấn xuất xưởng đông nam Mỹ.
CIS
Phôi thanh: Tâm lý thị trường phôi thanh Biển Đen suy yếu do các khách hàng Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ từ chối giá mua cao.Các nhà máy cán lại Thổ Nhĩ Kỳ chuyển sang thị trường phôi thanh nội địa với giá tầm 530-535 USD/tấn xuất xưởng so với giá chào 540 USD/tấn CFR Istanbul từ CIS.
Thổ Nhĩ Kỳ
HRC: Giá niêm yết HRC nhìn chung ở mức 620-635 USD/tấn xuất xưởng vào hôm thứ sáu, tăng 30 USD/tấn so với đầu tháng. Vài nguồn tin cho rằng giá có thể tăng thêm 5-15 USD/tấn nhờ giá nhập khẩu cao, gần bằng với giá nội địa tính theo giá CFR.
Thép mạ: giá thép mạ đã tăng 45-50 USD/tấn trong nửa tháng qua với một nhà máy chào bán thép mạ 0.5mm tại mức 865 USD/tấn xuất xưởng. Các nhà máy khác chào bán tại mức 845-865 USD/tấn xuất xưởng và FOB.
CRC: CRC vẫn ổn định sau khi tăng những tuần trước. Một nhà máy lớn chào bán CRC tại mức cao 750-760 USD/tấn xuất xưởng tới thị trường nội địa ngày thứ sáu trong khi giá niêm yết các nhà máy khác cũng tăng lên 730-750 USD/tấn xuất xưởng.
Chào giá từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ cho CRC đạt mức 650-660 USD/tấn CFR trong khi giá chào từ một nhà máy Romania là 680 USD/tấn CFR hồi đầu tuần.