Nga
HRC: Các nhà máy HRC Nga, mặc dù kế hoạch trước đó tăng giá 5% cho sản lượng sản xuất tháng 04, hiện đang nâng ý định này lên mức 10%. Điều này được thúc đẩy bởi giá xuất khẩu tăng vọt cho cả phôi vuông và cuộn cán; HRC xuất khẩu của CIS đã đạt được mức tăng 70usd/tấn chỉ trong một tháng, tăng vọt từ mức giá 250usd/tấn FOB Biển Đen vào giữa thang 02 lên 320usd/tấn vào giữa tháng Ba, theo định giá của Platts.
Đối với sản lượng sản xuất HRC tháng 04, các nhà máy muốn nhận được mức giá 29.740-29.795 rúp (439-440usd)/tấn cho thép dày 2mm và 29.090-29.150 rúp (430-431usd)/tấn cho thép dày 4mm, vận chuyển Moscow. Nếu không bao gồm 18% thuế VAT, giá sẽ tương đương với rúp 25.200-25.250 rúp (372-373usd)/tấn và 24.650-24.700 (364-365usd)/tấn tương ứng, và đánh dấu mức tăng 9.5-10%, hoặc rúp 2.200-2.250 rúp (33usd)/tấn, từ mức giá tháng 03. Các cuộc đàm phán vẫn đang tiếp tục, các khách hàng đang rất bất ngờ và chưa sẵn sàng để chấp nhận mức tăng này.
Hôm 18/03, Platts duy trì định giá tấm cán nóng và cuộn cán nóng nội địa Nga không đổi ở mức 22.400-23.000 rúp (331-340usd)/tấn và 21.800-22.400 rúp (322-331usd)/tấn tương ứng, CPT Moscow cơ bản.
Châu Âu
HRC: Platts duy trì định giá HRC Bắc Âu ổn định hôm thứ Sáu ở mức 340-350euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Chào giá từ một số nhà máy được nghe nói ở mức 359-360euro/tấn trong khi Platts tính toán chào giá của nhà sản xuất hàng đầu thị trường này là ArcelorMittal nằm trong phạm vi 360-370euro/tấn. Giá chào nhập khẩu vẫn tiếp tục khan hiếm.
Thép hình: Thị trường thép hình châu Âu đang cho thấy tín hiệu mạnh lên trong vài ngày qua do sự hỗ trợ của sự cải thiện mạnh mẽ gần đây trong thị trường phế và nhu cầu tiêu thụ theo mùa phục hồi lại. Tại EU nguồn tin cho biết giá giao dịch tăng 10-15euro/tấn và điều này đang hỗ trợ cho quyết định xem xét tăng giá mới của một số nhà máy.
Định giá tuần của Platts cho thép hình EU tăng 7.50euro/tấn hôm thứ Sáu 18/03 lên mức 452.50euro/tấn giao ngay.
Thổ Nhĩ Kỳ
Thép cuộn: Các nguồn tin cho hay thị trường thép cuộn Thổ Nhĩ Kỳ đang tìm kiếm cân bằng trong tuần trước sau các đợt tăng mạnh khoảng 100usd/tấn của tuần trước đó.
Phần lớn người mua đã rút ra khỏi thị trường để chờ đợi giá điều chỉnh, trong khi các nhà máy cố gắng duy trì giá niêm yết. Tuy nhiên một số nhà sản xuất thép bắt đầu chào giá với chiết khấu giảm 10-15usd/tấn cho đơn hàng khối lượng lớn vào cuối tuần.
Giá chào HDG 0.5mm là 650-680usd/tấn xuất xưởng thứ Sáu, trong khi chào giá trong nước cho PPGI 9002 0.5mm là 750-780usd/tấn xuất xưởng.
Thép cây: Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 374usd/tấn FOB hôm thứ Sáu, duy trì ổn định từ mức thứ Năm.
CIS
Phôi thanh: Platts định giá phôi thanh xuất khẩu CIS ở mức 312.50usd/tấn FOB Biển Đen thứ Sáu tuần trước, tăng 2.50usd/tấn so với thứ Năm. Giá chào từ CIS đươc biết hôm thứ Sáu duy trì ổn định ở mức 315-320usd/tấn FOB Biển Đen. Platts tăng nhẹ định giá phôi CIS cho phù hợp với một loạt các đơn đặt hàng cũng như các chỉ số giá được biết trong phạm vi 305-320usd/tấn FOB Biển Đen.
Mỹ
Tấm mỏng: Platts duy trì định giá HRC và CRC hàng ngày hôm thứ Sáu tại mức 420-440usd/tấn ngắn và 580-600usd/tấn ngắn, tương ứng – đều xuất xưởng cơ bản Midwest (Indiana).
Wire rod: Hôm thứ Sáu, wire rod tăng giá, do các nhà sản xuất trong nước duy trì thông báo tăng giá bán trước đó áp dụng cho đơn hàng giao tháng 04. Platts nâng định giá cuộn trơn dạng lưới của Mỹ lên mức 450-480usd/tấn ngắn xuất xưởng hôm thứ Sáu, tăng từ mức 430-460usd/tấn ngắn xuất xưởng.
Đầu tháng này, Nucor đã tăng giá thêm 20usd/tấn ngắn cho hàng hàng giao tháng 04, với những nhà máy nội địa khác sau đó cũng thông báo tăng giá lên tương tự.
Hầu như giá wire rod ở Mỹ tăng là do chi phí nguyên liệu thô tăng chứ không phải nhu cầu tiêu thụ. Giá phế Mỹ tăng trung bình 10-20usd/tấn dài trong tháng 03 và các tín hiệu ban đầu cho thấy sẽ có thể có một đợt tăng nữa cho tháng 04.
Phế: Niềm tin thị trường đã cải thiện trong tuần trước do nhận được hỗ trợ của giá xuất khẩu mạnh hơn, nguồn cung phế thắt chặt cũng như giá thép nội địa tăng mạnh.
Bất chấp những tín hiệu tăng giá cao hơn, Platts duy trì định giá phế vụn ở mức 200-220usd/tấn dài vận chuyển đến nhà máy ở Midwest hôm thứ Sáu tuần trước, trong khi chờ đợi thông tin giá có thể chấp nhận được.
Các nguồn tin thị trường cho biết giao dịch mua bán phế HMS 80:20 được thực hiện ở mức giá 229usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ tuần này sẽ thúc đẩy thị trường Mỹ, thu hút một lượng hàng lớn đến East Coast.
Châu Á
Thép cuộn không gỉ: Giá giao dịch của CRC không gỉ loại 304 2B 2mm vẫn duy trì ổn định trong tuần trước ở mức 1.630-1.650 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á hôm thứ Sáu. Nhiều người cho biết nhu cầu không đủ mạnh để hỗ trợ cho bất kỳ đợt tăng giá nào nữa trong tuần trước do giá niken biến động.
Giá giao dịch từ Hàn Quốc là 1.600 USD/tấn FOB, sau khi tăng khoảng 50 USD/tấn vào đầu tháng này. Nguyên nhân chính khiến giá tăng là do giá niken bình quân cao hơn, nhưng không có sự tăng rõ ràng trong khối lượng giao dịch.
Trong khi đó, chào giá cho CRC 304 2mm 2B được sản xuất từ các nhà máy hàng đầu vẫn trên mốc 1.600 USD/tấn FOB trong tuần trước. Nhưng người mua từ các nước Châu Á như Ấn Độ thì vẫn chỉ đưa ra mức giá 1.550-1.580 USD/tấn CFR.
Thép cây: Các nhà xuất khẩu thép cây Trung Quốc đã ngưng chào giá vào ngày thứ Sáu tuần trước vì thị trường trong nước phục hồi mạnh. Chào giá mua từ các thị trường như Singapore cũng đang tăng, nhưng vẫn còn thấp hơn so với chào giá của các nhà máy.
Platts định giá thép cây đường kính 16-20mm tăng 8,5 USD/tấn so với ngày trước đó lên 319-322 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, vì người mua thừa nhận mua với giá cao hơn.
HRC: Hôm thứ Sáu, giá giao ngay của HRC tăng trong ngày thứ hai liên tiếp ở Châu Á khi các nhà máy Trung Quốc từ chối bán giá rẻ trong bối cảnh thị trường trong nước phục hồi. Người mua ở nước ngoài đã tăng giá chào mua của họ, nhưng không đủ để hấp dẫn người bán.
Platts định giá HRC SS400 3.0mm trong khoảng 350-355 USD/tấn, mức trung bình 352,5 USD/tấn, tăng 9 USD/tấn so với ngày trước- HRC SS400 được định giá 358-363 USD/tấn hôm thứ sáu, tăng 4 USD/tấn so với tuần trước.
Tất cả người mua Việt Nam bây giờ đều bị sốc bởi chào giá cao của Trung Quốc. Một số đã chào giá mua 345-350 USD/tấn FOB cho thép cuộn Rizhao Iron & Steel, nhưng tính tới cuối ngày thứ Sáu họ vẫn chưa nhận được hồi âm nào. Người mua cần thêm vài ngày để làm quen với tình hình thị trường mới và đưa ra chào giá mua.
Trung Quốc
Thép dẹt: Benxi Iron & Steel sẽ tăng giá xuất xưởng cho tất cả các loại thép dẹt thêm 200-500 NDT/tấn (31-77 USD/tấn) cho tháng 4 trong bối cảnh thị trường trong nước củng cố. Động thái tăng giá này không có gì gây ngạc nhiên vì một vài nhà máy đối tác đã nâng giá lên mức tương tự hay thậm chí là cao hơn trong hai tuần qua.
Theo đó, giá xuất xưởng tháng 4 của Bengang cho HRC Q235 5.75mm sẽ tăng 200 NDT/tấn so với tháng 3 lên 2.440 NDT/tấn. Trong khi đó, CRC SPCC 1.0mm và HDG SPGC 1.0mm sẽ đạt lần lượt 3.250 NDT/tấn và 3.730 NDT/tấn, tăng tương ứng 400 NDT/tấn và 500 NDT/tấn. Tất cả các giá này đều chưa bao gồm 17% VAT.
Platts định giá HRC Q235 5.5mm trên thị trường Thượng Hải là 2.380-2.400 NDT/tấn hôm thứ Sáu tuần trước, tăng 70 NDT/tấn so với ngày trước đó. Trên sàn Shanghai Futures Exchange cùng ngày, hợp đồng HRC giao kỳ hạn tháng 5 chốt tại 2.290 NDT/tấn, tăng 58 NDT/tấn so với ngày trước đó.
Phôi thanh: Giá phôi thanh của Trung Quốc tiếp tục bất ổn đang gây bối rối và làm hạn chế lượng giao dịch. Khoảng 10.000-15.000 tấn phôi thanh Q235 120mm được chốt với giá 305 USD/tấn CFR Manila, giao cuối tháng 4. Chào giá giao tháng 4 cho phôi thép Q275 120mm đang phổ biến ở mức 310-315 USD/tấn CFR. .
Tại thành phố Đường Sơn, giá niêm yết phôi thanh đã giảm 200 NDT/tấn (31 USD/tấn) xuống 1.820 NDT/tấn (290 USD/tấn) hôm thứ Hai tuần trước từ mức 2.020 NDT/tấn hôm 11/3. Sau khi giảm thêm 70 NDT/tấn, giá đã tăng trở lại trong 3 ngày liên tục với tổng cộng 160 NDT/tấn đạt mức 1.910 NDT/tấn vào cuối ngày thứ Sáu.
Hôm 18/3, Platts đã hạ giá phôi thanh 120/130mm xuống còn 300-315 USD/tấn CFR từ mức 300-320 USD/tấn CFR. Mức giá trung bình 307,5 USD/tấn, thấp hơn 2,5 USD/tấn so với tuần trước đó.
Thép cây: Thép cây HRB400 đường kính 18-25mm đã tăng vọt 155 NDT/tấn (24 USD/tấn) so với ngày trước đó lên 2.250-2.270 NDT/tấn xuất xưởng Bắc Kinh, trọng lượng thực tế và gồm 17% VAT.