EU
HRC: Platts duy trì định giá HRC Bắc Âu ở mức 430-440usd/tấn xuất xưởng Ruhr Thứ Sáu.
Thị trường đang ngày một gia tăng quan ngại với xu hướng giá tăng với giá chào nhà máy ở mức 450-460euro/tấn xuất xưởng. Hầu hết hoạt động khá trầm lắng nhưng thời gian giao hàng được kéo dài hơn bởi phía nhà máy và trong khi chào giá nhập khẩu của Trung Quốc ở mức 500euro/tấn CIF Antwerp không có tính cạnh tranh.
Thổ Nhĩ Kỳ
Tấm mỏng: Do một số dấu hiệu suy yếu được thấy trong thị trường nội địa của giá HRC tuần trước, đặc biệt là giá phổ biến của nhà tích trữ trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ nghèo nàn và nhập khẩu thấp hơn, giá CRC và HDG cũng đang giảm dần.
Tuy nhiên, các nhà máy nhìn cung đã cố gắng giữ giá niêm yết trong nước ổn định và chỉ cung cấp chiết khấu giảm giá nhẹ cho đơn hàng lớn, bất chấp sự mong đợi của người mua về việc điều chỉnh giá giảm đáng chú ý, các nguồn tin công nghiệp cho biết hôm thứ Sáu.
Chào giá HRC của nhà máy đến cho thị trường trong nước vẫn tương đối đi ngang ở 570-590usd/tấn xuất xưởng vào tuần trước, trong khi giá của nhà tích trữ giảm xuống mức thấp 550-570usd/tấn do áp lực từ phía người mua. Giá CRC ở mức 650-680usd/tấn cho thị trường trong nước vào ngày thứ Sáu.
HDG: Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ duy trì liên tục bắt đầu làm giảm dần giá HDG vào tuần trước. Chào giá của các nhà sản xuất cuộn mạ hàng đầu cho HDG dày 0.5mm cho thị trường trong nước giảm xuống còn 710-740usd/tấn xuất xưởng với mức chiết khấu giảm giá, trong khi chào giá trong nước cho PPGI 9002 dày 0.5mm ở mức 810 -840usd/tấn xuất xưởng, tùy thuộc vào điều khoản thanh toán và khối lượng hàng, giảm khoảng 20-30usdtấn trong tuần.
Thép cây: Thị trường xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ vẫn duy trì ổn định trong cuối tuần trước do các nhà sản xuất miễn cưỡng giảm giá theo như ý kiến của bên mua.
Platts định giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 460-470usd/tấn FOB hôm thứ Sáu, mức giá trung bình là 465usd/tấn FOB, gỉam 2.5usd/tấn trong ngày.
Nhật Bản
Thép cây: Kyoei Steel đã quyết định sẽ nâng giá thép cây trong nước thêm 3.000 Yên/tấn (27 USD/tấn) cho những hợp đồng tháng 6 đối với thép thanh cỡ thường lên 55.000 Yên/tấn (500 USD/tấn).
Giá thị trường hiện nay cho thép cây cỡ thường SD295 ở Osaka là khoảng 51.000-52.000 Yên/tấn (464-473 USD/tấn), tăng 8.000 Yên/tấn so với 1 tháng trước.
Tokyo Steel Manufacturing, nhà máy mini hàng đầu của Nhật, trước đây đã thông báo tăng 3.000 Yên/tấn cho thép cây 13-25 mm đối với những hợp đồng tháng 6 lên 54.000 Yên/tấn.
CIS
Phôi tấm: Giá phôi tấm nguồn gốc CIS lần đầu tiền đã suy yếu sau gần 4 tháng tăng liên tục. Đà tăng vọt đã kéo giá phôi tấm từ mức 210usd/tấn FOB Biển Đen trong tuần cuối cùng của tháng 01 lên mức cao gần gấp đôi là 400usd/tấn, giữa tháng 05.
Vào ngày thứ Sáu 20/05, Platts giảm định giá phôi tấm FOB Biển Đen hàng tuần còn 380-390usd/tấn FOB Biển Đen, giảm 5usd/tấn trong tuần.
Phôi thanh: Platts định giá xuất khẩu phôi thanh CIS hàng ngày ở mức 360usd/tấn FOB Biển Đen. Thị trường này vẫn duy trì ổn định hôm thứ Sáu với chào giá vẫn ở mức 360-365usd/tấn FOB Biển Đen cho hàng giao tháng 07. Nhưng người mua tỏ ra không mấy quan tâm đến việc đặt hàng.
Mỹ
Tấm mỏng: Người mua Mỹ tiếp tục chật vật để có được báo giá tấm mỏng của nhà máy vào thứ Sáu, nhưng thị trường nhất trì rằng giá từ các nhà máy chưa mở bán đơn hàng cho tháng 07 sẽ ở mức cao hơn.
Platts hôm thứ Sáu nâng định giá HRC hàng ngày lên mức 610-620usd/tấn ngắn xuất xưởng, tăng từ 600-620usd/tấn ngắn. Định giá CRC tăng lên đến 810-830usd/tấn ngắn từ 810-820usd/tấn ngắn. Cả hai định giá được chuẩn hóa theo giá xuất xưởng Midwest (Indiana).
Cuộn trơn: Giá cuộn trơn Mỹ cao hơn trong tuần trước đã bắt đầu duy trì ổn định do các nhà máy tăng giá mua cho tháng sáu. Platts thứ Sáu đã tăng định giá tuần cho cuộn trơn dạng lưới của Mỹ lên mức 520-550usd/tấn ngắn xuất xưởng, tăng từ 500-530usd/tấn ngắn.
Gerdau cho biết sẽ tăng giá giao dịch 40usd/tấn ngắn, có hiệu lực cho hàng vận chuyển từ ngày 01/06 và Keystone Steel & Wire công bố tăng giá wire rod 30usd/tấn ngắn. Nucor thông báo tăng 20usd/tấn ngắn cho cuộn trơn carbon thấp và 30usd/tấn ngắn cho cuộn trơn carbon cao.
Châu Á
Thép cây: Giá thép cây giao ngay ở Châu Á vẫn còn suy yếu trong ngày thứ Sáu khi giá Trung Quốc tiếp tục giảm khiến niềm tin thị trường bi quan và người mua nán lại việc đặt đơn hàng. Nhu cầu tiêu thụ cũng được dự báo sẽ chậm hơn trong suốt mùa mưa ở miền nam Trung Quốc và Đông Nam Á vào những tháng tới.
Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm giảm nhẹ 1 USD/tấn so với ngày trước đó xuống 340-343 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.
HRC: Giá HRC giao ngay ở Châu Á vẫn duy trì ổn định trong ngày thứ Sáu với rất ít giao dịch được nghe nói. Hầu hết mọi người đều bi quan về giá trong tuần này và nói rằng chỉ nhận được giá hỏi mua hạn chế từ khách hàng ở nước ngoài.
Platts định giá HRC SS400 3.0mm trong khoảng 365-370 USD/tấn, bằng với thứ Năm. Thép cuộn cùng loại được định giá 375-380 USD/tấn CFR Đông Á, giảm 13 USD/tấn so với tuần trước đó.
Phôi thanh: Các nhà nhập khẩu phôi thanh Trung Quốc ở Đông Á tiếp tục rời xa thị trường trong tuần trước giữa bối cảnh quan ngại giá vẫn chưa bình ổn. Giá phôi thanh xuất khẩu của Trung Quốc lún sâu trong tuần trước cùng với sự suy yếu của thị trường thép nội địa. Platts vẫn duy trì định giá phôi thanh 120/130mm ở mức 330-340 USD/tấn CFR Đông Á hôm thứ Sáu, mức trung bình 335 USD/tấn CFR, không đổi so với tuần trước đó.
Chào giá cho phôi thanh Q275 120mm giao tháng 7 ở Manila đang phổ biến ở mức 335-340 USD/tấn CFR. Chào giá cho phôi Q235 150mm ở Thái Lan là 330-335 USD/tấn CFR.
Thép không gỉ: Hôm thứ Sáu, giá giao dịch cho CRC không gỉ loại 304 2B 2mm của Đài Loan và Hàn Quốc giảm 25 USD/tấn xuống 1.750-1.850 USD/tấn CFR tại cảng Đông Á và Đông Nam Á. Các thương nhân trong khu vực cho biết những nhà cung cấp Đài Loan đã hạ chào giá của họ để phù hợp với thị trường Trung Quốc và giá niken đang giảm. Giá niken đã rời khỏi mốc 9.000 USD/tấn.
Trung Quốc
CRC: Giá xuất khẩu của CRC Trung Quốc đã sụt giảm hôm thứ Sáu, khi một số doanh nghiệp phản ứng với giao dịch xuất khẩu trì trệ và giá trong nước suy yếu.
Hôm thứ Sáu, trong khi một số nhà máy thép vẫn đang chốt chào giá cho CRC SPCC dày 1.0mm ở mức 460 USD/tấn và cao hơn, một vài nhà máy đã đồng ý để hạ giá xuống khoảng 440 USD/tấn FOB. Và cho đến này, yêu cầu từ nước ngoài hay chào bán phá giá vẫn còn thưa thớt.
Còn tại thị trường trong nước, CRC SPCC 1.0mm đang giao dịch phổ biến ở mức 3.150-3.340 NDT/tấn (481-510 USD/tấn), giảm khoảng 100 NDT/tấn so với thứ Năm. Mặc dù tồn kho thị trường vẫn còn thấp nhưng giao dịch trì trệ đã kéo giá đi xuống.
Phôi thanh: Giá niêm yết phôi thanh ở thành phố Đường Sơn vẫn không đổi vào cuối tuần trước và giữ ở mức 2.000 NDT/tấn (305 USD/tấn), sau khi giảm 60 NDT/tấn hôm thứ năm. Giá ngày 20/5 vẫn cao hơn 120 NDT/tấn so với mức giá 1.880 NDT/tấn của thứ sáu tuần trước đó.
Thép không gỉ: Tại thị trường Trung Quốc, CRC 304 đã giảm tổng cộng 350 NDT/tấn (53 USD/tấn) trong tuần trước. Tháng này đã chứng kiến giá của các nhà máy hàng đầu trong đó có Taigang giảm khoảng 850 NDT/tấn (130 USD/tấn).
Giá niken giao dịch chính thức bằng tiền mặt trên sàn London Metal Exchange chốt tại 8.485-8.490 USD/tấn hôm 19/5, giảm 286 USD/tấn so với tuần trước đó và 1.066 USD/tấn so với đầu tháng này.
Quặng sắt: Giá quặng sắt nhập khẩu đã có một sự phục hồi ngắn ngủi vào đầu tuần trước khi nhiều người tìm cách mua trước khi diễn ra Diễn đàn quặng sắt ở Singapore bắt đầu vào ngày 18/5, sau đó sụt giảm trở lại trong bối cảnh giá thép bất ổn và nhu cầu quặng sắt giảm mạnh.
Platts định giá 62% Fe IODEX ở mức 54.25 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc, tăng 0,8 USD/dmt so với tuần trước nhưng giảm 4,1 USD/dmt cách đây hai tuần. Giá tham khảo của TSI cho quặng sắt cùng loại là 55,7 USD/dmt CFR Thiên Tân, tăng 2,2 USD/dmt tức 4,1% so với tuần trước.