EU
Thép tấm: Thị trường thép tấm dày Tây Bắc Âu đã nhìn thấy xu hướng tăng hơn nữa trong tuần qua, khi các nhà máy ở miền đông và miền tây châu Âu đã đẩy giá cao hơn và có nhiều khả năng tiếp tục làm như vậy do hàng nhập khẩu khan hiếm.
Platts định giá thép tấm hàng ngày ở mức 445-455euro/tấn xuất xưởng thứ Sáu, tăng 10euro/tấn, từ thứ năm. Định giá nhập khẩu đã được điều chỉnh thêm 15euro/tấn lên đến 420-425euro/tấn CIF Antwerp.
HRC: Platts duy trì định giá HRC Bắc Âu ở mức 370-380euro/tấn xuất xưởng Ruhr. Nhập khẩu tiếp tục khan hiếm và không cạnh tranh. Platts duy trì định giá nhập khẩu ở mức 370-390euro/tấn CIF Antwerp.
Thổ Nhĩ Kỳ
Cuộn mạ: Do giá nhập khẩu và trong nước của thép cuộn cán nóng tiếp tục duy trì mạnh mẽ trong tuần trước, nên giá niêm yết HDG và PPGI các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng nhẹ. Tuy nhiên, nhà sản xuất vẫn tiếp tục cung cấp chiết khấu cho những khách hàng lớn với các đơn đặt hàng khối lượng lớn trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ tiếp tục thấp trên thị trường.
Chào giá của các nhà sản xuất thép cuộn mạ hàng đầu của Thổ Nhĩ Kỳ cho HDG 0.5mm ở mức 650-680usd/tấn xuất xưởng vào tuần trước, trong khi chào giá trong nước cho PPGI 9002 0.5mm cũng ở mức cao là 740-770usd/tấn xuất xưởng. Chào giá xuất khẩu của các nhà sản xuất tiếp tục duy trì mức thâp hơn khoảng 20usd/tấn so với giá niêm yết trong nước tuần qua, trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ trì trệ.
HRC: Chào giá HRC của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ trong khoảng 470-500usd/tấn xuất xưởng tại thị trường trong nước vào thứ Sáu tuần trước, trong khi giá chào CRC ở mức 560-580usd/tấn xuất xưởng, nhưng các nhà máy dự kiến sẽ mở bán đơn hàng tháng 07 với giá cao hơn trong những ngày sắp tới, phản ánh giá phôi tấm và phế nhập khẩu cao hơn.
Thép cây: Platts định giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 478 euro/tấn hôm thứ Sáu, ổn định từ mức thứ Năm.
Phế tàu: Giá mua tính bằng dollar Mỹ của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho phế tàu cũ đã đi theo sức mạnh phế nhập khẩu trong tuần trước, nhưng không mạnh mẽ như giá nhập khẩu. Giá mua tính bằng lira của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho phế DKP hầu như duy trì ổn định.
Phế nóng chảy từ tàu cũ được chào giá đến các nhà máy ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Habas, IDC, Ege Celik, Ozkan) ở mức cao 275-280usd/tấn thứ sáu tuần trước, tăng 10usd/tấn so với đầu tuần, trong khi giá phế nhập khẩu đã vượt quá 290usd/tấn CFR cho HMS I/II (80:20).
Tuy nhiên giá mua phế DKP của các nhà sản xuất thép hàng đầu nước này hầu như vận ổn định trong tuần qua. Giá mua phế DKP của Kardemir ở mức 800TRY (282usd)/tấn, trong khi Asil Celik, đã mua DKP với mức giá 740 TRY (261usd)/tấn cả, kể từ 09/04. Giá mua phế DKP của Colakoglu cũng vẫn ổn định ở 710TRY (250usd)/tấn kể từ 08/04. Eregli thuộc tập đoàn Erdemir ở miền bắc, đã mua phế DKP ở mức 785TRY (277usd)/tấn kể từ 14/04, trong khi giá thu mua tại nhà máy ở Iskenderun, miền nam nước này cũng ổn định ở mức 745TRY(263usd)/tấn.
Giá mua phế DKP nội địa của nhà sản xuất EAF hàng đầu khác của Thổ Nhĩ Kỳ cũng ổn định trong khoảng 710-760TRY (250-263usd)/tấn vào thứ Sáu, tùy thuộc vào khu vực và yêu cầu các nhà máy.
Nga
HRC: Các nhà sản xuất thép cuộn cán nóng của Nga đã nhận thấy mức tăng giá 20% (4.900 rúp tương đương 74usd/tấn) cho sản lượng tháng 05 cuối cùng đã đạt được trong tháng 04. Mức tăng này được thúc đẩy bởi xu hướng tăng mạnh mẽ của giá xuất khẩu cho cả phôi tấm và thép cuộn. Tuy nhiên, các nhà máy đã phải cắt giảm nguồn cung tấm mỏng và thép cuộn cuộn dây ở thị trường trong nước - bằng cách tăng xuất khẩu - bởi vì mức giá mới này gần như không thể chi trả nổi bởi nhiều người mua.
Ngày 22/04, Platts tăng định giá tấm mỏng cán nóng 2-4mm và thép cuộn trong nước của Nga thêm 4.900 rúp (74usd)/tấn trong tuần lên mức 29.600-30.100 rúp (447-455usd)/tấn và 29.000-29.500 rúp (438-446usd)/tấn, tương ứng, CPT Moscow.
Đối với nguồn cung của tấm mỏng cán lạnh tháng 05, nhà máy cũng đã nâng giá thêm 3.050 rúp (46usd)/tấn hoặc 10% từ mức bốn tuần trước lên 33.000-33.050 rúp (499-500usd)/tấn CPT Moscow cho thép dày 1mm. Với VAT, sản phẩm này có giá 38.940-39.000 rúp (588-590usd)/tấn. Giá trị tính bằng đồng dollar Mỹ của các mức giá này tăng 57usd/tấn trong bốn tuần qua.
CIS
Phôi tấm: Giá phôi CIS đã tăng tuần thứ mười hai liên tiếp vào tuần trước. Xu hướng tăng lên tiếp được hỗ trợ bởi sự cải thiện liên tục của giá sản phẩm thép dẹt trên toàn cầu – dẫn đầu bởi Trung Quốc - cũng như các vấn đề nguồn cung, các nhà máy quan tâm hơn vào việc bán thép thành phẩm hơn so với thép bán thành phẩm.
Platts tăng định giá phôi tấm FOB Biển Đen hàng tuần đến 365-370usd/tấn FOB Biển Đen, tăng 17.50usd/tấn trong tuần.
Phôi thanh: Platts định giá ngày cho phôi thanh xuất khẩu CIS ở mức 405usd/tấn FOB Biển Đen thứ Sáu 22/04 , tăng 5usd/tấn. Các nguồn tin cho rằng giá sẽ tiếp tục tăng và hiện không còn nguồn cung nào của CIS dưới 400usd/tấn FOB Biển Đen.
Mỹ
Tấm mỏng: Thứ Sáu tuần trước thị trường đã không từ chối mức giá thép tấm Mỹ cao hơn do hầu như không có nguồn cung giao ngay sẵn có cũng như phía nhà máy thực hiện mức giá tăng lên các đơn đặt hàng mới.
Căn cứ vào báo giá luôn cao hơn, Platts tăng định giá HRC hàng ngày đến 510-530usd/tấn ngắn từ 505-520usd/tấn ngắn, và định giá CRC 690-710usd/tấn ngắn từ 680-700usd/tấn ngắn. Cả hai giá này đều được chuẩn hóa theo giá xuất xưởng Midwest (Indiana).
Thép tấm: Giá thép tấm tại thị trường Mỹ tiếp tục tăng lên, sau thông báo tăng giá của nhà máy tuần trước. Cả Nucor và SSAB đã thông báo tăng 40usd/tấn ngắn trong suốt tuần trước.
Hôm 22/04, Platts tăng mức trung bình của định giá hàng ngày của A36 tấm thêm 15usd/tấn ngắn lên mức 590-610usd/tấn ngắn xuất xưởng đông nam nhà máy Mỹ.
Châu Á
Thép không gỉ: Giá giao dịch của CRC không gỉ loại 304 2B 2mm Đài Loan và Hàn Quốc đã tăng lên 1.700-1.730 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á hôm thứ Sáu, tăng 40 USD/tấn so với tuần trước. Dự báo các nhà sản xuất là sẽ nâng chào giá lên trong ngắn hạn vì giá niken tăng mạnh suốt vài ngày qua.
Nhưng giá cao có lẽ sẽ khiến người mua giảm nhiều hơn. Người mua đã bổ sung thêm hàng dự trữ khi giá niken đang dao động quanh mức 8.500-8.800 USD/tấn và họ có thể sẽ đợi xu hướng giá niken rõ ràng hơn trước khi chốt được một số đơn hàng mới.
Thép cây: Giá thép cây giao ngay đã giảm nhiệt hôm thứ sáu tuần trước, chấm dứt đà tăng 4 ngày sau khi đẩy giá lên mốc cao 20 tháng. Người mua đã rút lại chào giá và chọn cách quan sát từ bên lề thị trường khi thị trường Trung Quốc suy yếu.
Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm giảm 3,5 USD/tấn so với ngày trước đó xuống 430-434 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Nhưng mức trung bình 432 USD/tấn FOB đánh dấu tăng 50 USD/tấn so với tuần trước và vẫn ở mức cao nhất trong 20 tháng.
Nguyên nhân đằng sau là do giá thép cây giao sau suy yếu 4,8% vào thứ sáu tuần trước sau khi tăng liên tục qua 5 phiên giao dịch chốt tại 2.619 NDT/tấn (403 USD/tấn). Giá giao sau suy yếu hơn cũng đã phản ánh một sự chậm lại trong giao dịch trên thị trường giao ngay vì giá đã tăng quá nhanh.
Phôi thanh: Thị trường phôi thanh Đông Á phục hồi cùng với đà tăng mạnh của thị trường Trung Quốc bùng nổ vào tuần trước. Người mua nhìn chung đang đợi bên lề và cố gắng hấp thụ những lần tăng mạnh và đột biến của chào giá Trung Quốc.
Platts tăng định giá phôi thanh 120/130mm hàng tuần lên 400-415 USD/tấn CFR, từ 360-375 USD/tấn CFR của tuần trước. Mức trung bình 407,5 USD/tấn, cao hơn tuần trước 40 USD/tấn.
HRC: Giá giao ngay của HRC ở Châu Á đã giảm lần đầu tiên trong hơn 5 tuần do giao dịch trì trệ và giá Trung Quốc suy yếu. Một vài nguồn tin sợ rằng giá xuất khẩu sẽ giảm đáng kể từ đầu tới giữa tháng 5 khi người mua có thể mua được hàng ở trong nước hoặc từ các nước khác.
Platts định giá HRC SS400 3.0mm ở mức 462-467 USD/tấn, mức trung bình 464,5 USD/tấn, giảm 8 USD/tấn. Thép cuộn loại này được định giá hàng tuần ở mức 470-475 USD/tấn CFR tính tới ngày thứ sáu, tăng 39.5 USD/tấn so với tuần trước đó.
Người mua ở Việt Nam đang bắt đầu có thái độ chờ đợi. Các nhà máy Nhật Bản đã quay lại Việt Nam và chào giá 490-495 USD/tấn CFR cho thép cuộn loại cán lại. Chào giá của các thương nhân Trung Quốc cho thép cuộn SAE1006 2.0mm là 480-485 USD/tấn CFR hôm thứ Sáu. Nhưng giá mua lý tưởng của nhà cán lại này chỉ có 475-480 USD/tấn CFR Việt Nam.
Trung Quốc
Thép không gỉ: Chào giá xuất khẩu cho thép không gỉ xuất xứ Trung Quốc cũng tăng trong tuần trước, với giá cao hơn phản ánh mức tăng 500 NDT/tấn (77 USD/tấn) so với tuần trước trên thị trường thép không gỉ trong nước. Thật khó để chốt được giao dịch hiện nay, do khoảng cách giá giữa người bán và mua. Nhưng ở bất cứ trường hợp nào, các nhà máy Trung Quốc cũng không vội bán khi thị trường trong nước đang nhộn nhịp hẳn lên.
HDG: Giá HDG xuất khẩu đã trải qua đợt tăng mạnh cho tới tháng này do mức trung bình trong nước gia tăng và có khả năng giá sẽ còn leo thang hơn nữa. Các nhà máy lớn đang có ý định ngưng chào giá HDG cho tới sau Lễ Lao động, một phần là bởi vì lượng thép phân bổ cho xuất khẩu tháng 6 đã hoàn toàn cạn kiệt và một phần là do họ tin là giá có khả năng tăng cao hơn nữa.
Theo định giá của Platts, giá trung bình xuất khẩu cho HDG DX51D 1.0mm phủ 120 grams kẽm trên một mét vuông là 507,5 USD/tấn FOB.
Còn tại ại thị trường Thượng Hải,HDG DX51D 1.0mm được giao dịch phổ biến ở mức 4.380-4.450 NDT/tấn (675-685 USD/tấn) hôm thứ Sáu, cao hơn khoảng 655 NDT/tấn tức 17% so với đầu tháng 4.
HRC: Giá giao ngay của HRC trên thị trường Thượng Hải đã sụt giảm khoảng 100 NDT/tấn (15 USD/tấn) sau 4 ngày tăng liên tiếp, do giá phôi thanh và hợp đồng giao sau suy yếu.
Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở mức 3.130-3.150 NDT/tấn gồm 17% VAT, mức trung bình 3.140 NDT/tấn, giảm 110 NDT/tấn so với ngày trước đó. Cùng ngày trên sàn Shanghai Futures Exchange, hợp đồng HRC giao kỳ hạn tháng 10 được chốt tại 2.817 NDT/tấn, thấp hơn ngày trước đó 75 NDT/tấn.