Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng hợp tin tức ngày 27/4/2016

 EU

Thép cây: Thị trường thép dài châu Âu đang nhảy vọt với giá thép cây tăng nhanh đáng kể và với những sản phẩm thép dài khác theo sau xu hướng đó. Giá đang di chuyển đi lên chủ yếu do phế tăng cao trong khi nhu cầu tiêu thụ thật tế vẫn tương đối suy yếu do các điền kiện cơ bản không cải thiện.

Định giá ngày thép cây tây bắc châu Âu của Platts đã tăng 20euro/tấn hôm thứ Ba lên mức 410-430euro/tấn thực tế xuất xưởng.

HRC: Platts duy trì định giá HRC Bắc Âu ở mức 380-400euro/tấn xuất xưởng Ruhr hôm thứ Ba.

Nhập khẩu tiếp tục khan hiếm và thiếu cạnh tranh. Platts định giá nhập khẩu không đổi ở mức 390-400euro/tấn CIF Antwerp.

Thổ Nhĩ Kỳ

HRC: Giá HRC tiếp tục tăng lên ở Thổ Nhĩ Kỳ tuần này, trong bối cảnh giá nhập khẩu phôi tấm và phế giá tăng mạnh mẽ, cộng với giá chào cao hơn; tuy nhiên mức tăng này đang chậm hơn trên thị trường.

Ít nhất một trong những nhà máy thép lớn của Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu chào giá ở mức 530usd/tấn xuất xưởng cho HRC hôm trưa thứ Hai cho đơn hàng tháng 07. Các nhà cung cấp khác cũng tăng giá chào, song song với các mức giá cao hơn từ các nhà nhập khẩu, ở mức 450-455usd/tấn CFR.

Mức tăng này đã khiến phạm vi chào giá của HRC lên đến 510-530usd/tấn xuất xưởng trong thị trường nội địa hôm thứ Ba, tăng đáng kể 30usd/tấn so với tuần trước.

Thép cây: Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 490usd/tấn FOB hôm thứ Ba tăng 5usd/tấn so với thứ Hai.

Chào giá cao hơn được nghe nói đã giảm nhẹ lại trong thứ Ba và các thương nhân đã nhất trí một mức giá khả thi hơn. Không có mua bán mới được nghe nói. Các nhà sản xuất khá trầm lắng, với các thương nhân đang chủ động hơn trong đàm phán giá cả.

Phế tàu: Giá mua phế tàu tính bằng dollar Mỹ của các nhà máy Thổ Nhĩ tiếp tục cải thiện hôm thứ Ba, nhưng không mạnh mẽ như giá nhập khẩu, trong khi giá mua phế DKP bằng đồng lira của nhà máy tiếp tục duy trì ổn định.

Phế nấu chảy từ tàu cũ được chào giá đến các nhà máy ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Habas, IDC, Ege Celik, Ozkan) ở mức cao là 285-290usd/tấn hôm thứ Ba, tăng 10usd/tấn so với đầu tuần, trong khi giá mua phế nhập khẩu HMS 1&2 80:20 đã vượt 310usd/tấn CFR.

Tuy nhiên giá mua phế DKP của các nhà sản xuất thép hàng đầu tiếp tục ổn định trong tuần này. Giá mua DKP của Kardemir là 800TRY (283usd)/tấn, trong giá mua của Asil Celik là 740TRY (261usd)/tấn, đều từ 09/04. Giá mua DKP của Colakoglu cũng duy trì ổn định ở mức 710TRY (251usd)/tấn từ 08/04. Eregli thuộc tập đoàn Erdemir ở phía bắc Thổ Nhĩ Kỳ đang mua phế DKP ở mức 785TRY (277usd)/tấn từ 14/04, trong khi giá mua phế của tập đoàn này tại nhà máy Iskenderun ở miền nam cũng ổn định ở mức 745TRY (263usd)/tấn.

Giá mua phế nội địa DKP tại các nhà sản xuất thép EAF hàng đầu Thổ Nhĩ Kỳ cũng duy trì ổn định trong khoảng 710-760TRY (251-268usd)/tấn hôm thứ Ba, tùy thuộc khu vực và yêu cầu của nhà máy.

CIS

Phôi thanh: Platts định giá phôi thanh CIS ở mức 425usd/tấn FOB Biển Đen hôm thứ Ba tăng 5usd/tấn trong ngày.

Mỹ

Tấm mỏng: Giá nhập khẩu HRC và CRC ở Mỹ đang tăng cao hơn hôm thứ Ba. Tuy nhiên, nguồn tin thị trường cho biết chào giá chỉ ở rải rác vài nơi và việc bảo đảm được sự cam kết từ phía công ty là rất khó khăn vì giá quốc tế tiếp tục tăng lên.

Chào giá HRC Thổ Nhĩ Kỳ ở mức khoảng 530-540usd/tấn ngắn vận chuyển sau thuế vào Houston cho hàng cập cảng tháng 08 hoặc tháng 09. Mức giá này bao gồm thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên người mua này tỏ ra không quan tâm đến hàng nhập khẩu.  

Platts tăng định giá HRC nhập khẩu lên mức 480-510usd/tấn ngắn từ 440-480usd/tấn ngắn, trước đó, CRC tăng lên mức 580-610usd/tấn ngắn từ mức 540-560usd/tấn ngắn.

Phế: Giá phế container xuất khẩu tăng vọt 25usd/tấn hôm thứ Ba do các nhà máy Đài Loan đã chấp nhận giá chào 295usd/tấn CFR cho phế container  HMS 80:20 từ nhà cung cấp Mỹ. Giá đang tăng 25usd/tấn từ tuần trước, tăng 75usd/tấn từ 01/04 và tăng 100usd/tấn từ 16/03.

Một nhà cung cấp Bờ Tây được báo giá 285usd/tấn FAS đến 1 cảng ở Bờ Tây cho HMS 80:20 container. Bóa giá này từ một thương nhân đã tăng 15usd/tấn từ thứ Hai.

Platts định giá phế container HMS 80:20 Bờ Tây Mỹ ở mức 280-285usd/tấn FAS cảng Los Angeles hôm thứ Ba. Định giá này tăng 22.50usd/tấn trong ngày.

Châu Á

Thép cây: Giá thép cây giao ngay ở Châu Á tiếp tục lao dốc trong ngày làm việc thứ ba liên tiếp, do bị sức ép từ thị trường Trung Quốc. Hôm 26/4, Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm giảm 4,5 USD/tấn so với ngày trước đó xuống 423-428 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.

HRC: Giá HRC giao ngay ở Châu Á đã rớt trong ngày thứ Ba do giá Trung Quốc và hoạt động thu mua đều suy yếu. Một số thương nhân mua HRC với giá rẻ hơn trước đó đã vội vàng bán hết các lô hàng có trong tay vì sợ giá sẽ giảm thêm nữa trong tương lai gần.

Platts định giá HRC SS400 3.0mm ở mức 447-452 USD/tấn hôm thứ Ba, mức trung bình 449,5 USD/tấn, giảm 15 USD/tấn so với ngày trước đó.

Đài Loan

Thép cây: Các nhà máy thép cây Đài Loan mà dẫn đầu là Feng Hsin Iron & Steel trong tuần này đã thông báo tăng giá mạnh cho thép cây trong nước, vì cần bù lại chi phí phế cao hơn. Feng Hsin đã tăng giá thép cây thêm 1.000 Đài tệ/tấn (31 USD/tấn) và giá mua phế lên 800 Đài tệ/tấn, đây là mức tăng mạnh nhất trong hơn một năm qua.  Được biết các nhà máy khác cũng đã tăng thêm khoảng 1.000 Đài tệ/tấn.

Với lần điều chỉnh mới nhất này, giá niêm yết của Feng Hsin cho thép cây đường kính chuẩn 13mm tăng lên 14.800 Đài tệ/tấn xuất xưởng Taichung trong khi nhà máy mini này đang mua phế HMS 1&2 (80:20) trong nước với giá 8.000 Đài tệ/tấn. Đó là một tuần hiếm hoi khi Feng Hsin nâng giá thép cây nhiều hơn giá mua phế.

Trung Quốc

HRC: Tại thị trường Thượng Hải, Platts định giá USD/tấn HRC Q235 5.5mm ở mức 3.050-3.070 NDT/tấn (470-473 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, thấp hơn ngày trước đó 80 NDT/tấn. Trên sàn Shanghai Futures Exchange cùng ngày, hợp đồng HRC giao kỳ hạn tháng 10 chốt tại 2.685 NDT/tấn, giảm 172 NDT/tấn so với ngày trước đó.

Benxi Iron & Steel (Bengang) đã chào giá cơ bản 480 USD/tấn FOB cho HRC SS400 để giao tháng 6. Tuy nhiên, không ai tỏ ra quan tâm vì giá trong nước đang rớt.

CRC: Sự sụt giảm nhẹ trong tuần này của giá CRC cho tới nay không làm ảnh hưởng đến giá xuất khẩu, thị trường xuất khẩu vẫn đứng vững ở mức giá cao đã đạt được hồi tuần trước. Nhiều người nói rằng hầu hết các doanh nghiệp đã đặt mua hết các lô hàng giao tháng 6.

Platts định giá CRC SPCC dày 1.0mm trong khoảng 503-507 USD/tấn FOB, mức trung bình 505 USD/tấn FOB, tăng 17,5 USD/tấn so với tuần trước. Tuy nhiên, tốc độ tăng giá đã chậm lại so với mức tăng 35 USD/tấn của tuần trước đó. Hệ quả là, chênh lệch giá xuất khẩu giữa CRC và HRC xuất xứ Trung Quốc là 55,5 USD/tấn, cao hơn 3 USD/tấn so với mức 2,5 USD/tấn của hồi tuần trước.

Giá trong nước cho CRC cùng loại như trên được định giá 3.660-3.710 NDT/tấn (564-571 USD/tấn), tăng 100 NDT/tấn so với tuần trước. Tuy nhiên, so với hôm thứ Hai, giá đã giảm 20-40 NDT/tấn do giá HRC sụt giảm. Việc giá điều chỉnh giảm sau khi tăng mạnh kể từ đầu tháng 4 là chuyện bình thường. Và do tồn kho thị trường thấp, nên giá không có khả năng rớt mạnh.