Mỹ
Người mua trên thị trường tấm mỏng Mỹ đang tìm sự định hướng, khi nhu cầu tích trữ hàng từ trung tâm dịch vụ và giá phế tăng có thể cho phép các nhà máy ngừng cung cấp các loại giao dịch có khối lượng lớn đã từng chứng kiến trong hai tuần qua.
Platts duy trì định giá HRC và CRC lần lượt là 620- 630 USD/st và 820- 840 USD/st . Cả hai định giá được chuẩn hóa theo cơ sở xuất xưởng Midwest (Indiana), không đổi trong tuần.
Nucor sẽ nâng giá giao dịch cơ bản cho tất cả các loại thép thanh SBQ cacbon và hợp kim được đúc và cán lại thêm 30 USD/tấn ngắn, có hiệu lực từ 13/02. Gerdau Long Steel North America và Steel Dynamics Inc. cũng sẽ tăng giá cơ sở cho tất cả các sản phẩm thanh SBQ carbon và hợp kim 30usd/st, có hiệu lực với hàng giao từ 01/04.
Xu hướng tăng giá chiếm ưu thế tại một cuộc họp ngành phế ở St. Louis tuần này, nơi các đại lý tại Mỹ và người mua nhà máy dự đoán mức tăng đáng kể trong giá phế trong nước trong tháng Ba. Nguồn tin được khảo sát cho biết giá cả thỏa thuận sẽ tăng và hầu hết ước tính tăng 20-50usd/lt.
CIS
Platts định giá phôi thép xuất khẩu của CIS mức 385 USD/tấn FOB Biển Đen, tăng 8 USD/tấn trong tuần. Phạm vi chào giá từ các nhà máy CIS là 385-400usd/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov.
Các nhà máy CIS đã nâng chào giá cho HRC và CRC, và các thương nhân cho rằng có một cơ hội tốt để mức giá mới có thể trụ vững. Chào giá HRC của Nga đã tăng lên 480-490 USD/tấn FOB Biển Đen với chào giá CRC tăng lên 550-560 USD/tấn.
Theo Platts, giá HRC xuất khẩu của Trung Quốc đã duy trì mức 497 USD/tấn FOB Thiên Tân kể từ ngày 07/02, trong khi giá trong nước đã tăng 13 USD/tấn. Platts đã nâng định giá HRC CIS lên 475-480 USD/tấn FOB Biển Đen, tăng 5 USD/tấn với giá CRC đang được định giá ở mức 540-545 USD/tấn, tăng 15 USD/tấn.
Giá phôi phiến trong khu vực này đã leo thang và do đó tiếp tục thu hẹp khoảng cách với giá HRC, mức chênh lệch giữa hai loại này đã lớn bất thường trong suốt tháng 12 tới giữa tháng 1 với 85-90 USD/tấn.
Mặc dù chào giá HRC mới đã tăng lên 480-490 USD/tấn FOB Biển Đen và niềm tin rằng giá giao dịch sẽ theo kịp với mức này, nhưng đến nay mức giá khả thi vẫn còn dưới mức này. Các giao dịch phôi phiến mới nghe nói chốt với giá 412-415 USD/tấn FOB Biển Đen. Định giá hàng tuần cho phôi phiến CIS đã tăng 10 USD/tấn so với tuần trước đó lên 410-420 USD/tấn FOB Biển Đen.
EU
Platts tăng trung điểm của phạm vi định giá thép cuộn cán nóng phía bắc châu Âu thêm 2,50 euro/tấn hôm thứ Tư với mức cao nhất của phạm vi giá tăng 5 euro/tấn lên mức 570-580 euro/tấn (604,34-615,08usd/tấn) xuất xưởng Ruhr. Giá nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ là khoảng 530 euro/tấn CIF Antwerp, với giá đàm phán xung quanh ngưỡng 510-520 euro/tấn.
Các nhà sản xuất ống hàn Châu Âu đã xoay sở để tiếp tục giá cao hơn trong tháng 1 và hiện đang đánh giá thị trường để biết xu hướng giá thép cuộn sắp tới. Giá đã tăng 30-40 EUR/tấn từ tháng 1 đến đầu tháng 2, và một số nhà sản xuất vẫn chưa quay lại với giá cao hơn sau khi ngừng chào giá vào tháng trước. Giá trung bình hiện nay giảm 22-24 điểm cơ bản, dựa trên giá niêm yết mới của Marcegaglia.
Giá thép cây Châu Âu cho tới nay cũng được báo cáo là không thay đổi kể từ đầu tuần này sau khi mất khoảng 10 EUR/tấn trong hai tuần qua. Tại Pháp, giá ở mức 195 EUR/tấn giao hàng tới miền tây nước này. Tại Đức, giá giao hàng là 230 EUR/tấn, trong khi giá tại Italia cho các sản phẩm tương tự là 120-130 EUR/tấn xuất xưởng.
Thị trường thép hình cũng được cho là vẫn ổn định, sau khi đã giảm xuống khoảng 505-515 EUR/tấn, trong khi giá bình quân cho thép thanh thương phẩm là 50-60 EUR/tấn căn cứ theo nơi giao hàng.
Platts duy trì định giá thép cây hàng ngày ở mức 445-460 EUR/tấn xuất xưởng Tây Bắc Âu.
Phụ phí hợp kim tháng Hai cho thép dẹt ferriti 403 được công bố bởi các nhà máy châu Âu trung bình khoảng 785euro/tấn (830usd/tấn), tăng 29% từ 610 euro/tấn trong tháng trước và tăng 89% từ mức 415 euro/tấn trong tháng 02/2015.
Phụ phí Outokumpu cho thép dẹt nickel-free 430 chốt ở mức 810 euro/tấn cho tháng Hai, tăng 186 euro từ tháng Một và đạt mức cao kỷ lục từ tháng 01/2007.
Phụ phí châu Âu cho thép nickel-bearing austenitic cũng tăng mạnh trong những tháng gần đây, với mức phụ phí trung bình cho thép dẹt 304 là 1.420 euro/tấn cho tháng Hai, tăng 7,5% từ mức 1.320 euro/tấn trong tháng Một và tăng 66% từ 855 euro/tấn vào tháng Hai năm 2015.
Thổ Nhĩ Kỳ
Platts định giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 425 USD/tấn FOB, tăng từ mức 405USD/tấn của tuần trước đó. Các nhà sản xuất đã cố gắng ổn định giá chào với giá 440-450usd/tấn FOB Marmara/Izmir. Về phía mua của thị trường vẫn còn từ chối mức 440usd/tấn FOB.
Platts nâng định giá lên mức 425usd/tấn FOB, tương ứng với các giá đặt mua được báo cáo bởi các nguồn tin thị trường và cũng đại diện cho mức trung điểm giữa giá hỏi mua (420usd/tấn FOB) và giá chào cạnh tranh hơn từ các nhà máy.
Các nhà sản xuất thép dài của Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục nâng giá niêm yết trong do giá phế và phôi thép nhập khẩu cao hơn cùng với nhu cầu mạnh hơn. Chào giá thép cây đường kính 12-32mm của các nhà máy nằm trong phạm vi 430-440 USD/tấn xuất xưởng, tùy vào từng khu vực, trong khi chào giá xuất khẩu của họ là 425-435 USD/tấn FOB.
Giá niêm yết cho cuộn trơn đường kính 7-8.5 mm cũng đã tăng lên 2.030-2.060 TRY/tấn xuất xưởng, gồm VAT, tính tới ngày 13/2.
Trong khi đó, các nhà máy cũng nâng giá phôi thanh lên hơn 400 USD/tấn xuất xưởng.Trong khi đó, chào giá phôi thanh nhập khẩu từ CIS cũng tăng đáng kể trong những ngày gần đây chạm mốc 400-405 USD/tấn CFR.
Mặc dù giá quặng sắt và phế cao hơn đã nâng chi phí của các nhà máy thép dẹt Thổ Nhĩ Kỳ, giá niêm yết của các nhà sản xuất HRC vẫn ổn định trong suốt tuần. Giá niêm yết HRC trong nước của nhà máy vẫn tương đối ổn định ở mức 520-540usd/tấn xuất xưởng, trong khi báo giá xuất khẩu ở mức 510-520usd/tấn FOB.
Tuy nhiên, các nhà sản xuất thép cuộn mạ thực hiện một số điều chỉnh đi lên trong giá niêm yết của họ. Chào giá cho HDG dày 0.5mm ở mức 685-710 USD/tấn xuất xưởng, tăng khoảng 15 USD/tấn, trong khi chào giá trong nước của các nhà máy cho PPGI 9002 dày 0.5mm là 780-810 USD/tấn xuất xưởng.
Chào giá HRC nhập khẩu đến Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi đó, bắt đầu mạnh lên trong những ngày gần đây. HRC nhập khẩu chào giá từ CIS là khoảng 495-505usd/tấn CFR tuần này, tăng 10usd/tấn so với tuần trước đó, nguồn tin thương mại Thổ Nhĩ Kỳ cho biết. Một số đặt hàng nhập khẩu từ CIS đã được thực hiện tại mức 485-490usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ.
Chào giá nhập khẩu HRC tới Thổ Nhĩ Kỳ vẫn còn đi ngang kể từ tuần trước. Chào giá nhập khẩu HRC từ CIS vào khoảng 485-500 USD/tấn CFR trong những ngày gần đây, nhưng chào giá mới từ CIS được dự báo trong tuần này.
Nhật Bản
Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp đã quyết định giữ giá giao ngay trong nước cho thép dầm hình H đối với những hợp đồng tháng 2 (sản xuất tháng 3) nhưng đang khuyến cáo khách hàng rằng họ sẽ phải trả nhiều hơn vào tháng tới.
Trong tháng này, NSSMC đang ưu tiên cho việc đảm bảo mức tăng trước đó được chấp nhận hoàn toàn. Thép dầm của nhà máy hiện có giá đắt hơn 13.000 Yên/tấn (114 USD/tấn) so với mức giá hồi tháng 11. Giá thị trường hiện nay cho thép dầm hình H cỡ lớn tại Tokyo là 72.000-73.000 Yên/tấn (632-640 USD/tấn), tăng 2.000 Yên/tấn so với 1 tháng trước đó.
Giá thị trường cho thép tấm dày loại thương phẩm tại Nhật Bản được dự kiến sẽ tăng hơn nữa khi các trung tâm và nhà phân phối tiếp tục vượt qua mức tăng trước đó mà đã được thúc ép thông qua bởi các nhà máy. Giá thị trường hiện tại cho thép tấm SS400 dày 19mm (1.524 x 3,480mm) ở Tokyo ở mức 78.000-79.000 Yên/mét tấn (684-693 USD/tấn), tăng 4.000 Yên/tấn so với tháng trước.
Ấn Độ
Các nhà máy thép Ấn Độ đang chật vật để thực hiện tăng giá HRC trong nước như đã thông báo vì người mua thương lượng kỳ kèo trước sự suy yếu của nhu cầu trực tiếp. Các nhà máy đang bị sức ép giảm xuống khoảng 2.000 Rupees/tấn (30 USD/tấn) cho giá niêm yết, một sự hạ giá đang đẩy giá thị trường giao ngay đi xuống. Hôm thứ Tư, S&P Global Platts định giá HRC IS 2062 từ 3mm trở lên giảm 2.000 Rupees/tấn so với tuần trước đó xuống còn 37.500-38.500 Rupees/tấn (560-575 USD/tấn) gồm phí vận chuyển. Mức giá này tương đương 44.242-45.421 Rupees/tấn gồm 5% VAT và thuế tiêu thụ 12.5%.
Thái Lan
Giá thép cây tại Thái Lan cuối cùng đã phục hồi trong bối cảnh chi phí phôi thanh tăng. Chào giá phôi thép đã tăng trong tuần này nhờ tâm lý cải thiện tại Trung Quốc và cùng với giá nguyên liệu cao hơn trong đó có phế. Giá thép cây trong nước đã tăng lên 16.700 Bath/tấn (477 USD/tấn) hôm thứ Ba, sau khi rớt xuống 16.200 Bath/tấn trong ngày thứ Hai. Tuần trước, giá thép cây phổ biến ở mức 16.500-17.000 Bath/tấn.
Đài Loan
Feng Hsin Iron & Steel đã quyết định cắt giảm giá thép cây niêm yết và giá thu mua phế nội địa xuống 200 Đài tệ/tấn (6,4 USD/tấn) cho tuần này, mặc dù giá thị trường của cả hai loại này đang phục hồi. Với lần điều chỉnh mới nhất, trong tuần từ ngày 13-17/02 giá thép cây trong nước của Feng Hsin giảm xuống 14.600 Đài tệ/tấn xuất xưởng, trong khi giá mua phế HMS 1&2 (80:20) trong nước đã được giảm xuống 6.900 Đài tệ/tấn. Đại diện công ty cho biết tuy quyết định của họ đi ngược lại với xu hướng thị trường hiện tại, khi mà giá nhập khẩu phôi thanh, phế và quặng sắt của Trung Quốc đều đang phục hồi nhưng phần lớn là để cho các khách hàng trung thành của công ty bổ sung hàng tích trữ với chi phí thấp hơn trong tuần này.
Hàn Quốc
Giá bán thép tấm dày loại thương phẩm tại thị trường nội địa Hàn Quốc đã giảm xuống dưới 600.000 Won/tấn (522 USD/ tấn) lần đầu tiên trong năm nay. Nguyên nhân được cho là do nhu cầu trì trệ từ sự chậm lại trong hoạt động xây dựng vào mùa đông nhưng dự báo giá sẽ phục hồi từ tháng Ba khi thời tiết ấm hơn. Giá nội địa cho thép tấm loại GS400 của Posco - một loại có chất lượng kém hơn được đưa ra để cạnh tranh với thép tấm có nguồn gốc Trung Quốc - đã nhảy vọt lên khoảng 620.000 Won / tấn (539 USD/ tấn) vào đầu tháng 1, tăng từ 460.000-470.000 Won / tấn vào cuối tháng 10. Hiện nay Posco đang chào giá 590.000-600.000 Won / tấn (513-522 USD/ tấn) cho các đại lý. Nhưng những người quan sát thị trường cho rằng sự rớt giá chỉ là tạm thời vì các công ty thầu xây dựng sẽ đẩy mạnh hoạt động xây dựng vào tháng tới khi mùa xuân đang đến.