Thổ Nhĩ Kỳ
Giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã chựng lại trong những ngày giao dịch cuối cùng của tuần kết thúc và ngày 24/02. Nhà máy chào bán trong khoảng 440-445usd/tấn FOB Marmara/Izmir. Có một khoảng cách 10-15usd/tấn giữa kỳ vọng giữa người mua và người bán. Định giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ của Platts ở mức 432,50usd/tấn FOB.
Mặc dù các nhà máy thép dài Thổ Nhĩ Kỳ hầu như đang duy trì giá thép cây trong nước và xuất khẩu, các nhà tích trữ bắt đầu giảm chào giá phổ biến vào cuối tuần.
Giá của nhà tích trữ ở khu vực Marmara giảm còn 1.870-1.890 TRY (520-526usd)/tấn (bao gồm 18% VAT), giảm khoảng 30 TRY (8usd)/tấn trong tuần, giá nhà tích trữ trong khu vực Iskenderun, miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, đã giảm mạnh hơn ở mức 50 TRY (14usd)/tấn còn 1.790-1.810 TRY/tấn. Giá nhà tích trữ tại khu vực Karabuk ở miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ cũng suy giảm còn 1.830-1.850 TRY/tấn xuất kho.
Các nhà sản xuất thép dài lớn của Thổ Nhĩ Kỳ duy trì giá chào cho thị trường trong nước trong khoảng 435-445usd/tấn xuất xưởng (chưa bao gồm VAT).
Giá phôi thanh của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục đi theo xu hướng phôi nhập khẩu mạnh hơn, đã đạt mức cao 415-425usd/tấn CFR. Chào giá phôi thanh của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 420-425usd/tấn xuất xưởng thứ Sáu.
Các nhà sản xuất thép dẹt của Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá niêm yết thép cuộn cán nóng, thép cuộn cán nguội và cuộn mạ thêm 10-20usd/tấn trong suốt tuần, trong khi chào giá xuất khẩu cũng tăng 10usd/tấn. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ nội địa vẫn còn chậm và nhu cầu xuất khẩu cũng bắt đầu cho thấy những dấu hiệu suy giảm nhẹ trong những ngày gần đây.
Giá niêm yết HRC trong nước của các nhà máy đạt 535-555usd/tấn xuất xưởng cho sản xuất tháng Năm, trong khi giá niêm yết CRC đến 630-650usd/tấn xuất xưởng. Chào giá xuất khẩu HRC lên mức 520-530usd/tấn FOB sau khi tăng, tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ ở châu Âu cũng bắt đầu đi xuống trong những ngày gần đây trong bối cảnh hàng tồn kho cao và đồng euro suy yếu, nguồn tin cho biết.
Chào giá cho HDG dày 0.5mm đạt 700-730usd/tấn xuất xưởng, tăng khoảng 15-20usd/tấn trong tuần, trong khi chào giá trong nước của các nhà máy cho PPGI 9002 dày ở mức 790-820usd/tấn xuất xưởng.
Giá mua phế tháo dỡ từ tàu tính bằng đồng đôla Mỹ và phế ô tô (loại DKP) tính bằng đồng lira của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng trong những ngày gần đây cùng với việc tăng giá của các nhà máy, phù hợp với xu hướng mạnh lên đang diễn ra trong giá phế nhập khẩu. Giá mua phế HMS 1&2 (80:20) mới đây nhất của một nhà máy từ Mỹ trong tuần trước đã đạt mức cao 283 USD/tấn CFR.
Các nhà máy sản xuất thép dài ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Ege Celik, IDC, Cebitas, Ozkan) đã nâng giá mua phế HMS từ tàu cũ lên 249-250 USD/tấn, tăng 10 USD/tấn so với tuần trước đó.
Giá mua phế loại DKP bằng đồng lira của các nhà máy cũng tăng mạnh thêm trong những ngày gần đây.
Nhà máy Eregli thuộc Erdemir Group nằm ở miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu mua phế loại DKP với giá 975 TRY/tấn (269 USD/tấn) tính tới ngày 16/2, tăng 25 TRY/tấn (79 USD/tấn), trong khi nhà máy Iskenderun của tập đoàn này ở miền nam mua phế cùng loại với giá 965 TRY/tấn (266 USD/tấn) hôm thứ Hai, cũng tăng đáng kể 45 TRY/tấn (12,5 USD/tấn) so với tuần trước đó.
Giá mua cho DKP tại một trong những nhà máy dùng lò hồ quang điện lớn nhất nước, Colakoglu, cùng với nhà sản xuất thép hợp kim Asil Celik đạt mức lần lượt là 900 TRY/tấn (248 USD/tấn) và 960 TRY/tấn (248 USD/tấn), tính tới ngày 17/2.
Mỹ
Đồn đoán trước tuần thu mua đã bắt đầu trong một thị trường phế Mỹ dễ bùng nổ với viễn cảnh giá sẽ đi lên. Giá mua thấp nhất của nhà máy đã được nghe nói ở 315usd/lt và 375usd/lt đã giao cho phế vụn và busheling no.01 tương ứng. Chào giá đại lý đã được báo cáo ở 345usd/lt đã giao cho phế vụn và 390-400usd/lt đã giao cho busheling no.01. Platts định giá phế vụn Midwest Mỹ ở mức 315- 320usd/lt đã giao nhà máy, tăng 30usd/lt.
Các nguồn thị trường Mỹ đã chấp nhận thông báo tăng giá của nhà máy chủ yếu là do dự đoán giá phế tháng Ba sẽ tăng.
Các nhà máy đang nhắm mục tiêu 640usd/st cho thép cuộn cán nóng và 840usd/st cho thép cuộn cán nguội và tấm mỏng mạ kẽm, ngoại trừ ArcelorMittal USA, nhà máy đã đặt giá cơ sở tối thiểu đối với CRC và tấm mỏng mạ kẽm tại mức 850usd/st. US Steel cũng tăng mức phụ phí của lớp mạ do chi phí kẽm cao hơn, có hiệu quả từ 01/04. California Steel Industries đã tăng phụ phí lớp mạ cho các đơn hàng tháng Tư.
Platts định giá HRC và CRC hàng ngày ổn định ở mức 620-630usd/st và 820-840usd/st xuất xưởng Midwest (Indiana).
Giá thép cây nhập khẩu tới Mỹ tăng mạnh khi thị trường đợi quyết định thuế chống bán phá giá và trợ giá sợ bộ đối với các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ.
Platts nâng định giá thép cây nhập khẩu Mỹ lên 460- 464 USD/st CIF Houston, tăng từ 413- 418 USD/st CIF.
Phụ phí thép dẹt không gỉ Mỹ duy trì ổn định đối hàng giao tháng Ba, theo bảng báo tiền nguyên liệu được công bố bởi các nhà máy trong nước hôm thứ Ba.
ATI Allegheny Ludlum, AK Steel và North American Stainless đã thông báo mức phụ phí tấm mỏng cán nguội tháng Ba với loại 304 và 316 không gỉ ở mứ 59,29-59,33 cent/lb, và 72,31-72,35 cent/lb, tương ứng.
Loại 304 không gỉ giảm nhẹ từ mức 59,52-59,56 cent/lb trong tháng Hai, trong khi loại 316 tăng nhẹ từ mức 72,07-72,36 cent/lb.
Phụ phí tháng ba của loại 430 không gỉ ở mức 31,62-31,63 cent/lb, giảm từ mức 31.99 cent/lb trong tháng Hai.
EU
Hoạt động trong thị trường thép tấm Bắc Âu vẫn trì trệ với các nhà máy đang chịu áp lực từ nguồn cung rẻ hơn đến từ miền nam và hàng nhập khẩu được bán ra từ hàng tồn kho. Đức duy trì chào giá S235 tấm trong khoảng 650-680 euro/tấn (687- 719usd/tấn) xuất xưởng. Tuy nhiên, các nhà máy khác ở châu Âu đã không thể thúc đẩy giá tăng nhiều như họ muốn. Chào giá dao động trong mức 580-600 euro/tấn xuất xưởng Ruhr, nhưng nhà máy vẫn còn đang nhận thấy áp lực từ các nhà tích trữ Italy bán tại mức 520-525 euro/tấn xuất kho trong khi nguồn cung Ukraina, bán ra từ các kho chứa tại Antwerp, đã cản trở đà tăng giá hơn nữa - tương tự như tình hình ở thị trường phía nam châu Âu. Platts chuyển mức trung điểm của giá hàng tuần cho S235 còn 575 euro/tấn xuất xưởng Ruhr, giảm 5 euro/tấn do các giao dịch mới nhất đã được nghe nói trong khoảng 570-580 euro/tấn. Mức trung điểm của định giá nhập khẩu vẫn ổn định ở mức 530-540 euro/tấn CIF Antwerp.
Giá thép tấm Nam Âu đang tăng, nhưng chậm hơn so với một số dự đoán. Chào giá của Italy là khoảng 560-570 euro/tấn xuất xưởng, trong khi một số nhà tích trữ vẫn đang đưa ra mức giá khoảng 540 euro/tấn xuất xưởng. Chào giá nhập khẩu của nước thứ ba là 520- 530 euro/tấn CIF cảng Italy từ Ấn Độ và Hàn Quốc không được xem như là quá cạnh tranh vì tồn kho hiện có ở cảng ở mức giá thấp hơn.
Platts định giá thép cuộn cán nóng Bắc Âu tại mức 565-575 euro/tấn (598,06-608,64 usd/tấn) xuất xưởng Ruhr. Hầu hết các nhà cung cấp lớn đang chào giá cho hàng giao Q2 tại mức 590-600 euro/tấn, với một số nhà máy châu Âu khác ở phía Bắc ở mức khoảng 580 euro/tấn xuất xưởng. Các nhà máy Italy khoảng 550-560 euro/tấn, trong khi một số các đối thủ nhỏ hơn phía bắc châu Âu đã đưa ra giá 560 euro/tấn. Chào giá nhập khẩu là khoảng 525 euro/tấn CIF Antwerp, với giá chào của Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ vào khoảng 520-530 euro/tấn CIF.
ILVA đã công bố giá Q2 tại mức 550-560 euro/tấn xuất xưởng, nhưng với nguồn cung hạn chế nên nhà máy này chỉ muốn bán CRC và HDG. Chào giá chính thức của Bắc Âu là khoảng 590-600 euro/tấn; tuy nhiên, ngày càng có nhiều người mua nói các giao dịch sẽ không được chốt tại mức này.
Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ vẫn ít ỏi với các nhà tích trữ và các trung tâm dịch vẫn đang có tồn kho cao và nhu cầu tiêu thụ được biết không đáng kể. Hầu hết đang kháng cự lại mức cao nhất của phạm vi giá chào với nguồn tin đưa ra mức giá có thể giao dịch vào khoảng 570 euro/tấn.
Các nhà sản xuất thép cây Nam Âu đã tăng giá do chi phí phế mạnh hơn. Các nhà máy thép cây Tây Ban Nha đã nhắm mục tiêu 460 euro/tấn đã giao trong thị trường trong nước và 420-440 euro/tấn FOB đối với hàng xuất khẩu. Các nhà máy Italy nhắm mức 130-140 euro/tấn cơ sở xuất xưởng ( công thêm +265 euro/tấn cho 8-14mm) trong nước.
Phụ phí hợp kim hàng tháng của thép không gỉ cán mỏng austenitic ở châu Âu sẽ giảm nhẹ trong tháng Ba, làm chựng lại xu hướng tăng kéo dài 4 tháng khiến mức phụ phí đạt mức cao trong nhiều năm, thông báo nhà máy đầu tiên cho thấy hôm thứ Ba.
Outokumpu của Phần Lan, nhà sản xuất lớn nhất châu lục, đã điều chỉnh phụ phí hợp kim cho loại thép dẹt 304 (4301) tại mức 1.404 €/tấn (1.479usd/tấn) cho tháng Ba, giảm 30 €/tấn từ mức cao 27 tháng hồi tháng Hai. Phụ phí Outokumpu cho thép dẹt 316 molybdenum-bearing (4401) ở mức 1.926 €/tấn cho tháng Ba, giảm từ mức 1.947 €/tấn trong tháng Hai, cũng là mức cao 27 tháng. Trong khi đó, phụ phí của Outokumpu cho thép dẹt loại 430 nickel free, đạt mức cao nhất trong tháng Hai kể từ khi số liệu của Platts bắt đầu vào tháng Một năm 2007, sẽ giảm 20€ còn 790€/tấn cho tháng Ba.
CIS
Giá thép cuộn cán nóng CIS đã tăng lên nhờ vào sự quan tâm từ người mua cải thiện và nhiều giao dịch hơn sẽ diễn ra. Chào giá từ các nhà máy CIS trong khoảng 490-500uusd/tấn FOB Biển Đen sản xuất tháng Tư. Chào giá cuộn cán nguội đã được nghe nói là 555-565usd/tấn FOB. Platts tăng định giá HRC của CIS lên đến 480-495usd/tấn, tăng 7,50usd/tấn. Định giá CRC tăng 7,50usd/tấn lên đến 545-555usd/tấn.
Giá phôi thanh Biển Đen tiếp tục tăng do nhà sản xuất CIS và các thương nhân quyết tâm tìm cách tăng giá vì tâm lý lạc quan được thúc đẩy bởi Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và những căng thẳng ở miền đông Ukraine. Chào giá của Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ cho phôi thanh đã hơn nữa lên đến 430usd/tấn FOB và 420usd/tấn FOB tương ứng. Do đó giá của các nhà máy CIS dường như hấp dẫn hơn, ở mức 400-410usd/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov, vẫn là hàng giao tháng Ba.
Một nhà sản xuất của Nga đang chào giá phôi vuông 125mm ở mức 440usd/tấn CFR Manila cho hàng giao giữa tháng Tư. Mức này tương đương với 400-405usd/tấn FOB Biển Đen với mức phí vận chuyển ước tính là 35-40usd/tấn. Một nhà sản xuất CIS khác được báo cáo là đã bán 20.000 tấn phôi thanh 100mm từ Viễn Đông Nga tại mức 440-445usd/tấn CFR Manila. Những thông tin trên đặt giá thực tế vào khoảng 400-405usd/tấn FOB Biển Đen.
Platts định giá xuất khẩu phôi thanh CIS ở mức 400usd/tấn FOB Biển Đen, tăng 15usd/tấn.
Ấn Độ
Chính sách đổi tiền của chính phủ được đưa ra cách đây 4 tháng tiếp tục ảnh hưởng tới các giao dịch bằng tiền mặt- đây là hình thức mà hầu hết giao dịch thép diễn ra tại Ấn Độ- với lĩnh vực xây dựng là khó khăn nhất. Ngành xây dựng chiếm khoảng 35% nhu cầu thép tại nước này. Quá nhiều thép và quá ít tiền mặt đang khiến người mua HRC của Ấn Độ thương lượng khó khăn khi thực hiện giao dịch. Đáp trả lại, các nhà máy trong nước đã chọn cách giảm 1.000 Rupees/tấn (15 USD/tấn) cho HRC vào tuần này, với hy vọng bán được hàng mặc dù nhu cầu đang suy yếu. S&P Global Platts định giá xuất xưởng Mumbai cho HRC IS 2062 dày từ 3mm trở lên trong ngày thứ Tư giảm 1.000 Rupees/tấn so với tuần trước đó xuống 36.500-37.500 Rupees/tấn (545-560 USD/tấn) gồm phí vận chuyển. Mức giá này tương đương 43.062-44.242 Rupees/tấn gồm 5% VAT và thuế tiêu thụ 12.5%.
Đài Loan
Feng Hsin Iron & Steel đã nâng giá niêm yết thép cây và giá mua phế trong nước lên thêm 300 Đài tệ/tấn (9,7 USD/tấn) trong tuần này để phản ánh giá nguyên liệu và thép thành phẩm cao hơn. Với lần điều chỉnh mới đây thì giá thép cây của Feng Hsin sẽ lên 14.900 Đài tệ/tấn xuất xưởng và giá mua phế HMS 1&2 (80:20) lên 7.200 Đài tệ/tấn. Nhờ nhu cầu thép cây trong nước và giá phế toàn cầu đang đi lên cộng thêm chào giá xuất khẩu phôi thép của Trung Quốc cũng tăng nên giúp hậu thuẫn cho nhà máy nâng giá bán.
Hàn Quốc
Hyundai Steel bắt đầu thông báo tới các đại lý của mình hôm thứ Ba rằng công ty sẽ nâng giá thép tấm dày loại thương phẩm lên 30.000 Won/tấn (26 USD/tấn) kể từ tháng 3. Đây là lần tăng giá thép tấm thứ 6 của nhà máy kể từ tháng 11 và tổng mức tăng lên tới 190.000 Won/tấn (166 USD/tấn). Hyun
Nhật Bản
Tokyo Steel Manufacturing đã quyết định giữ giá thép cho các hợp đồng tháng 3, công ty cho biết cần thêm ít thời gian trước khi tăng giá lần nữa. Tokyo dai không bao giờ tiết lộ giá niêm yết của mình. Hyundai viện lý do rằng vì giá nguyên liệu cao hơn nên chi phí sản xuất của công ty trong quý này đã tăng lên tương đương 70 USD/tấn so với quý trước. Hiện tại, giá thị trường trong nước cho thép tấm SS400 20mm đang phổ biến khoảng 590.000-630.000 Won/tấn (515-550 USD/tấn), tăng từ 470.000-490.000 Won/tấn so với cuối tháng 8.
Hyundai Steel cũng sẽ nâng giá bán buôn cho HRC và tấm mỏng thêm 30.000 Won/tấn (26 USD/tấn) có hiệu lực từ tháng 3, đây là lần tăng giá thứ 3 của nhà máy này cho HRC trong nhiều tháng. Những lần trước khi công ty nâng giá tháng 1 và 2, Hyundai lấy lý do chính là do giá than cốc tăng trong vài tháng trước nhưng lần này công ty lại viện cớ giá quặng sắt lên cao trong 1 năm. Hiện tại, giá thị trường trong nước cho HRC SPHC 4.5mm của Hyundai đang phổ biến khoảng 770.000 Won/tấn (671 USD/tấn), tăng từ 600.000-620.000 Won/tấn của đầu tháng 1/2016. Hyundai không bao giờ tiết lộ giá niêm yết của mình cho bất cứ sản phẩm nào.Steel cho biết các đại lý đã chấp nhận mức tăng lớn trong phạm vi giá 9.000-13.000 Yên/tấn (80-115 USD/tấn) mà công ty đã thông báo cho các hợp đồng tháng 11, nhưng giá thị trường vẫn chưa theo kịp. Quyết định duy trì giá của Tokyo Steel đồng nghĩa với thép dầm hình H cỡ lớn SS400 sẽ vẫn được niêm yết ở mức 78.000 Yên/tấn cho tháng 3 và HRC SPHC 1.7-22mm vẫn có giá 62.000 Yên/tấn.
Giá thị trường hiện nay cho thép dầm hình H cỡ lớn SS400 vào khoảng 72.000-73.000 Yên/tấn tại Tokyo và thép tấm SPHC 1.6mm sheet (1,219x2,438mm) đang có giá 63.000-65.000 Yên/tấn. Giá thép dầm hình H của Tokyo Steel cao hơn 5.000-6.000 Yên/tấn và HRS cao hơn 4.000-6.000 Yên/tấn.