CIS
Các nhà máy CIS tăng giá chào bán phôi thanh để hưởng ứng theo giá tăng từ Trung Quốc. Dao động giá chào tuần này từ 390-405 USD/tấn FOB, giá cao nhất từ Nga còn Ukraina chào giá 390 USD/tấn FOB.
Người mua vẫn đàm phán ở giá thấp hơn nhưng giá giao dịch có nhích lên.Thị trường Ai Cập sẵn sàng trả mức 410 USD/tấn CIF cho phôi thanh CIS, cỡ 390 USD/tấn FOB Biển Đen. Trong khi đó, do gần vào lễ Ramadan nên sức mua từ Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu. Mức giá tối đa họ trả là 390 USD/tấn.
Tương tự, các nhà máy thép cuộn CIS cũng nỗ lực tăng giá, sử dụng đòn bẩy giá tăng ở Trung Quốc. Gía chào tăng lên 440-450 USD/tấn FOB còn giá giao dịch không dưới 440 USD/tấn FOB.
Ngay khi giá chào từ Trung Quốc tăng, các nhà máy CIS đã chốt được vài đơn hàng ở mức 440 USD/tấn FOB và nhận được nhiều chào mua hơn ở mức tương tự. Tuy nhiên, họ quyết định ngưng bán thép tháng 6 tại mức giá này và bắt đầu chào tại mức 450 USD/tấn.
Giá chàoTrung Quốc giảm trở lại gây hoang mang cho người mua. Nhiều người đang chờ tình hình thị trường rõ ràng hơn vào tuần tới.
Mỹ
Thị trường thép Mỹ tuần này diễn biến ổn định nhưng điều kiện còn lỏng lẻo cho phép giá có thể giảm nhẹ trở lại.
Giá các loại phế ở hầu hết các khu vực nhìn chung ổn định, song người mua vẫn cố gắng đàm phán giá thấp hơn. Tại Midwest, giá chào phế vụn dao động trong khoảng 300-310 USD/tấn. Phế busheling số 1 và phế kim loại bó số 1 có giá từ 355-390 USD/tấn đã tính phí giao hàng.
Thị trường HRC ổn định. Giá chào phổ biến cho HRC là 630 USD/tấn nhưng giá người mua đưa ra thấp hơn 30 USD/tấn. Nhiều người đang chờ cho giá HRC các lô hàng nhỏ giảm rồi mới đặt hàng.
Trong khi đó, giá CRC vẫn dao động trong biên độ rộng, tùy thuộc vào khu vực nhưng áp lực lớn nhất là giá ở Bờ Đông. Giá chào cho CRC Bờ Đông là 820 USD/tấn nhưng tiến sâu vào trong nội địa, giá có thể tới 860 USD/tấn.
Giá tấm mỏng sẽ không giảm nhiều trong ngắn hạn do thời gian làm hàng tăng sẽ hỗ trợ giá. Ngoài ra, nhiều nhà máy còn đang dự tính bảo dưỡng phân xưởng tháng này. Chẳng hạn như US Steel có kế hoạch bảo trì tới 25 ngày trong tháng 5 còn nhà máy Cleveland của ArcelorMittal bảo trì vào cuối tháng 5.
Châu Âu
Áp lực cạnh tranh từ hàng nhập khẩu, nhất là Trung Quốc kéo giá CRC Nam Âu suy yếu 10 Euro/tấn trong khi HRC và thép mạ kẽm ổn định.
Các nhà máy Ý giảm giá CRC xuống còn 610-620 Euro/tấn giao tháng 6-7 sau khi người mua bắt đầu nhận được chào giá rẻ hơn chỉ 580-585 Euro/tấn CFR Địa Trung Hải từ Trung Quốc đã tính thuế hải quan, giao tháng 8.
Trong khi đó, giá HRC bình ổn ở mức 505-515 Euro/tấn xuất xưởng. Giá chào nhập khẩu thấp hơn, với giá từ Thổ Nhĩ Kỳ là 490-495 Euro/tấn CFR Tây Ban Nha giao tháng 6-7. Ấn Độ thậm chí còn chào thấp hơn, 480 Euro/tấn CFR giao tháng 8.
Giá HDG vẫn ổn định với giá chào từ Nam Âu 650-670 Euro/tấn xuất xưởng mặc dù người mua chỉ dự thầu ở mức 640 Euro/tấn xuất xưởng. Các nhà máy trong nước vẫn giữ giá ổn định dựa trên nguồn cung thấp và nhu cầu tiêu thụ tốt.
Thổ Nhĩ Kỳ
Thị trường thép nội địa và xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ phản ứng trái chiều khi giá trong nước tăng trưởng tốt còn thị trường xuất khẩu lại im ắng. Tuy nhiên, do lễ Ramadan đang tới gần kề nên diễn biến những tuần sau sẽ chậm lại.
Các nhà xuất khẩu thép cây đang chuyển hướng bán vào nội địa vì được giá hơn, cộng với quan ngại về việc Mỹ tuyên bố điều tra hàng nhập khẩu theo Mục 232. Chỉ một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ chào giá 500-505 USD/tấn CIF tới Bờ Đông Mỹ. Giá trong nước tăng nhờ vào đồng Lira tăng giá, gần chạm mức 480 USD/tấn xuất xưởng.
Thị trường các mặt hàng tấm mỏng cũng diễn biến không đều. Giá xuất khẩu và nội địa của mặt hàng HDG giảm do sức mua trong nước thấp trong khi thị trường xuất khẩu chịu cạnh tranh gay gắt, còn giá chào bán HRC bình ổn nhờ giá nguyên liệu thô tăng đều.
Giá chào HDG 0.5mm tại thị trường nội địa giảm còn 710-730 USD/tấn xuất xưởng trong khi HDG 1mm ở mức 640-660 USD/tấn xuất xưởng. Giá chào xuất khẩu thấp hơn giá nội địa 10-15 USD/tấn.
Trong khi đó, các nhà máy HRC chào bán thép tháng 6 ở mức 520-525 USD/tấn xuất xưởng, không đổi so với tuần trước nhưng vẫn kèm chiết khấu cho các lô hàng lớn. Giá chào xuất khẩu giảm 10-20 USD/tấn tùy từng đơn hàng.
Ấn Độ
HRC Ấn Độ vẫn ổn định trong tuần do hệ quả lâu dài từ chiến dịch phi tiền tệ hóa của Chính quyền Ông Modi được công bố vào tháng 11 năm ngoái.
Nhu cầu tiêu thụ HRC từ các ngành sản xuất thép xây dựng như thép tấm mạ kẽm và thép ống có lỗ vẫn trì trệ sau khi Chính quyền Trung ương bất ngờ thông báo loại bỏ các đồng tiền mệnh giá lớn.
Chiến dịch phi tiền tệ hóa được chính quyền New Delhi công bố vào ngày 5/11 năm ngoái, mục đích khuyến khích các công dân chuyển sang phương thức thanh toán không tiền mặt. Tuy nhiên, các giao dịch bất động sản sụt giảm do thường thanh toán bằng tiền mặt đã khiến nhiều nhà thầu rút đầu tư khỏi các dự án xây dựng mới. Các nhà thầu và các nhà phát triển vốn thường giao dịch bằng tiền mặt nên khi có chính sách này họ không còn đầu tư thêm nữa.
Thanh toán không tiền mặt cũng ảnh hưởng tới việc mua các mặt hàng tiêu thụ lâu bền như xe hơi, vốn chỉ giao dịch bằng tiền mặt. Các thương nhân cố gắng giảm hàng tồn ở mức tối đa để tránh rủi ro, nên họ cũng thu mua ở mức tối thiểu.
HRC IS 2062 dày 3mm sản xuất ở Mumbai ổn định ở mức 35.500-36.500 Rupees/tấn (553-569 USD/tấn) đã tính 5% phí VAT và 12.5% thuế tiêu thụ đặc biệt.
Đài Loan
Nhà máy Feng Hsin Iron & Steel Đài Loan đã phải giảm giá niêm yết thép cây hơn nữa để cạnh tranh với các đối thủ khác tại Đài Nam. Mặc dù các tín hiệu thị trường cho thấy giá đã bình ổn trở lại, song giá bán từ nhà máy này giảm 400 Đài tệ/tấn (13 USD/tấn).
Sau khi điều chỉnh, giá chào mới của Feng Hsin cho thép cây cỡ chuẩn đường kính 13mm giảm còn 13.800 Đài tệ/tấn xuất xưởng đối với các đơn hàng bán ra vào ngày 2-5/5.
Tuy nhiên, nhà máy này cũng đồng thời giảm lượng hàng bán ra trong tuần để hạn chế tối đa ảnh hưởng từ giá bán thấp.
Hàn Quốc
Nhu cầu tiêu thụ thép xây dựng tại Hàn Quốc giảm bất thường trong tháng này, phần nhiều do các dự án chính phủ bị đóng bang cho tới cuộc bầu cử Tổng thống ngày 9/5. Sức mua không hỗ trợ nhưng giá phế tăng dẫn tới quyết định giữ nguyên giá của các nhà máy.
Hai nhà máy sản xuất thép dầm hình H gồm Hyundai Steel và Dongkuk Steel Mill giữ nguyên giá giao dịch tháng 5 ở mức 730.000 Won/tấn (646 USD/tấn). Trước đó họ có tăng giá thép theo giá phế. Song mức tăng phế cao hơn nên khi phế giảm trở lại, họ đã không hạ giá thép.
Giá tại thị trường trong nước có giá 730.000-750.000 Won/tấn (646-664 USD/tấn) hồi đầu tháng 4 ngay sau khi các nhà máy tăng giá, nhưng sức mua suy yếu đã kéo giá giảm về 690.000-700.000 Won/tấn (611-620 USD/tấn) trong tuần này.