CIS
Thị trường xuất khẩu phôi thanh và thép cuộn CIS tiếp tục đối mặt với áp lực tiêu thụ thấp. Càng gần tới hè, sức mua càng suy yếu vì là mùa mưa ở các thị trường khách hàng như Ấn Độ và Đông Nam Á, cộng với lễ Ramadan ở Trung Đông làm gián đoạn các dự án xây dựng.
Giá phôi thanh đã bình ổn nhiều tuần.Sức mua tại Ai Cập cải thiện nhưng các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ ít quan tâm. Giá chào phần lớn ở mức 400-410 USD/tấn FOB. Trong tuần, có vài đơn hàng được chốt tới Ai Cập ở mức giá 395 USD/tấn FOB. Các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ từ chối trả thêm vì dự đoán giá sẽ giảm lại, cộng với mua được phôi thanh Iran giá thấp hơn.
Trong khi đó, giá HRC giảm nhẹ vì mong muốn tăng giá của các nhà máy không được người mua đền đáp. Các nhà máy cố gắng tăng chào giá lên 440-445 USD/tấn FOB Biển Đen nhưng giá chốt chỉ ở mức 425 USD/tấn FOB đối HRC UKriana và 430 USD/tấn FOB cho HRC Nga.
Phần lớn các nhà máy thép ống đều giảm công suất nên sẽ cần ít thép hơn. Nhu cầu tiêu thụ tại nơi nào cũng thấp, bao gồm cả ở châu Âu, cho thấy giá HRC CIS vẫn chưa chạm đáy. Nhu cầu tiêu thụ dự báo sẽ còn suy yếu đến đầu tháng Sáu, làm cản trở mong muốn tăng giá của các nhà máy.
Châu Âu
Giá thép cuộn Châu Âu suy yếu do các áp lực chủ yếu từ hàng nhập khẩu, tiêu thụ chậm chạp và giá chào bán thấp tại vài nơi trong khu vực.
Trong thời gian gần đây, Ấn Độ nổi lên là một nhà xuất khẩu thép lớn và đang hoạt động mạnh tại thị trường nhập khẩu Châu Âu do không bị áp thuế sơ bộ, sau khi Nga rút khỏi thị trường. Giá đồng Euro tăng so với dolla khiến giá nhập khẩu càng trở nên cạnh tranh. Giá nhập khẩu vào tầm 480-490 Euro/tấn CIF Antwerp.
Giá chào bán tại các khu vực Trung và Đông Âu vẫn thấp, chỉ tầm 470-480 Euro/tấn, gây áp lực cho giá các khu vực khác, chẳng hạn như Tây Âu với giá chào hiện tại là 530 Euro/tấn.
Giá thép cuộn giảm cũng đặt gánh nặng lên vai các nhà máy thép ống. Người mua giảm giá chào vì nghĩ rằng các nhà máy phải giảm giá theo giá nguyên liệu đầu vào.
So với tháng 4, giá thép ống hàn tháng 5 đã giảm 20 Euro/tấn, ở mức trung bình 30-34 điểm tùy vào khu vực, nhà máy và hợp đồng. Các nhà máy giảm giá mạnh nhất là các nhà máy Pháp, với giá bán ở mức 34 điểm do họ cần hợp đồng.
Nếu Chính quyền EU không dùng các biện pháp bảo hộ để củng cố niềm tin thị trường thì giá sẽ tiếp tục giảm vì gần tới mùa tiêu thụ thấp điểm.
Thổ Nhĩ Kỳ
Giá thép cây trong nước Thổ Nhĩ Kỳ liên tục tăng dạo gần đây nhờ sức mua bật tăng, hậu thuẫn bởi nguồn cung hạn chế. Tuy nhiên, yếu tố này chỉ mang tính tạm thời do các nhà xuất khẩu đang đẩy vào bán trong nước, người mua đã hoàn thành việc trữ hàng và các nhà máy trong nước đã lắp đặt thêm công suất sản xuất.
Đà tăng giá chững lại trong tuần với việc nhiều nhà máy chào bán giá thấp hơn. Giá niêm yết tại các nhà máy ở mức 470-480 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá tại các nhà môi giới cao hơn 15-20 USD/tấn.
Thị trường xuất khẩu gặp khó khăn vì sức mua suy yếu, khối lượng giao dịch thấp. Họ đã chuyển mục tiêu bán vào trong nước để kiếm lời, nhưng dự báo nguồn cung trong nước tăng lại có vẻ sẽ khiến họ chịu nhiều sức ép hơn. Giá chào ổn định ở mức 435-450 USD/tấn FOB, tùy thuộc vào nhà máy và cảng xuất.
Các nhà máy vẫn tiếp tục chào bán tới Mỹ sau khi mức thuế cuối cùng được công bố hầu như không đổi so với thuế sơ bộ, ngoại trừ Habas bị áp thuế tới 21.60% nên có vẻ sẽ rút khỏi thị trường.
Giá tấm mỏng cũng suy yyếu, thể hiện qua việc chiết khấu do nhu cầu tiêu thụ chậm chạp trước lễ Ramadan. Giá niêm yết HRC trong nước tuy ổn định ở mức 500-510 USD/tấn xuất xưởng, nhưng chiết khấu có sẵn cho các đơn hàng lớn.
Các nhà xuất khẩu cũng dễ dàng đàm phán giá do áp lực cạnh tranh gay gắt và nhu cầu tiêu thụ sụt giảm tại Châu Âu trước hè.. Giá chào xuất khẩu của các nhà máy thấp hơn giá niêm yết trong nước 10-15 USD/tấn với chiết khấu có sẵn cho các đơn hàng lớn.
Mỹ
Giá thép Mỹ tiếp tục ổn định vì sức mua thấp và xu hướng thị trường không rõ ràng.
Nhu cầu tiêu thụ trên thị trường thép cây vẫn thấp, gây áp lực cho giá bán trong nước. Trong khi đó, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tiếp tục chào bán tới Mỹ vì biên độ thuế cuối cùng vẫn dưới 10%.
Các nhà máy Southeast duy trì giá chào tại mức 530-550 USD/tấn xuất xưởng.
Người mua đã tạm thời rút khỏi thị trường thép cuộn sau thông tin các nhà sản xuất xe hơi và các nhà sản xuất thiết bị gốc tạm ngưng hoạt động trong tháng 7.
Giá đã ổn định nhiều tuần liền nên các trung tâm dịch vụ không vội đặt hàng. Doanh số bán ra trong 2 tuần qua giảm so với tháng 4. Giá chào phổ biến cho HRC là 620 USD/tấn còn CRC ở mức 820 USD/tấn.
600-620 USD/tấn và 800-830 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Ấn Độ
Sức mua suy yếu trước khi thị trường bước vào mùa mưa tháng 6-9 đang khiến các nguồn tin thị trường chán nản. Nhu cầu tiêu thụ HRC từ các ngành sản xuất ống thép vẫn yếu, đặc biệt là các dự án xây dựng đường ống nước. Bên cạnh đó, hoạt động xây dựng cũng trì trệ dẫn tới tiêu thụ giảm.
Các chống bán phá giá cho HRC nhập khẩu từ 6 nước dường như đã hạn chế được một nửa lượng HRC xuất khẩu vào Ấn Độ. Tuy nhiên, sức mua lại không cải thiện.
Các nhà máy có xu hướng giữ giá ổn định, mong muốn kiếm chác được bất cứ đơn hàng nào. Giá có vẻ duy trì ổn định hết tháng.
Giá chào bán HRC IS 2062 dày 3mm xuất xưởng Mumbai ổn định ở mức 35.500-36.500 Rupees/tấn (553-569 USD/tấn) đã tính phí vận chuyển.
Nhật Bản
Các nhà phân phối thép xây dựng của Nhật Bản đang cố gắng giữ giá thép cây khỏi sự suy yếu gây ra bởi giá phế. Lý do đưa ra là vì các khoản chi phí đầu vào khác như phụ gia và phí năng lượng đều tăng.
Nhu cầu tiêu thụ thép cây thấp do đang trong mùa tiêu thụ thấp điểm, và dự báo tăng lại sau hè nên nhiệm vụ các nhà phân phối chỉ cần giữ giá hiện tại và chờ đợi nhu cầu thực sự tăng. Giá hiện tại của thép cây SD295 ở Tokyo là 57.000-58.000 Yên/tấn (502-511 USD/tấn), không đổi so với cách đây một tháng.
Trong khi đó, Nhà máy Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) quyết định tăng giá các hợp đồng thép dầm tháng 5 (thép được sản xuất vào tháng 6) thêm 2.000 Yên/tấn (18 USD/tấn) để cải thiện lợi nhuận.Tính từ cuối tháng 10 đến nay thì công ty đã tăng thêm 23.000 Yên/tấn cho thép dầm, tuy nhiên, lợi nhuận vẫn còn thấp.
Giá thị trường hiện tại cho thép dầm hình H cỡ lớn là 75.000-76.000 Yên/tấn (666-675 USD/tấn), không đổi so với tháng trước, và tăng 7.000 Yên/tấn so với tháng Tương tự, nhu cầu tiêu thụ thép dầm hình H trong giai đoạn tháng 4-6 thường suy yếu vì lý do mùa thấp điểm, nhưng nhờ hàng tồn thấp và quá trình giao hàng diễn ra suôn sẻ nên giá không giảm nhiều bằng năm ngoái.
Đài Loan
Nhà máy thép cây hàng đầu Đài Loan, Feng Hsin Iron & Steel vẫn duy trì giá niêm yết thép cây không đổi trong tuần này. Doanh số bán ra tuy chậm nhưng vẫn có đủ hợp đồng được ký kết vào các tuần trước, nên công ty vẫn khá lạc quan về điều kiện thị trường.
Do không có gì thay đổi nên giá thép cây cỡ chuẩn đường kính 13mm vẫn niêm yết tại mức 14.000 Đài tệ/tấn (463.5 USD/tấn) xuất xưởng cho các đơn hàng bán ra ngày 15-19/5.
Các nhà máy Đài Nam hưởng ứng theo quyết định của Feng Hsin và chọn cách duy trì giá không đổi.
Mặc dù giá nguyên liệu thô như phế và phôi thanh Trung Quốc đều đã tăng lại vừa phải nhưng các nhà máy Đài Loan không tăng giá vì không muốn cản trở sức mua.