Mỹ Cuộc điều tra 232 đạo luật mở rộng cho thép nhập khẩu đã bắt đầu hậu thuẫn giá thép Mỹ tăng lên trong tuần này. Các nhà máy tấm mỏng đã thông báo tăng giá thêm 30 USD/tấn, giúp ngăn chặn đà giảm giá kể từ tuần trước. Giá HRC hiện đã ở mức 600 USD/tấn, như ủy ban thương mại Mỹ cam kết trước đó, thậm chí có người chào bán 620 USD/tấn. Lượng đơn hàng cũng cải thiện sau khi các nhà máy tăng giá. Có vẻ như thị trường đang có tín hiệu phục hồi, chủ yếu nhờ niềm tin thị trường cải thiện quanh cuộc điều tra 232. Ngoài ra, thời gian làm hàng mở rộng cũng hỗ trợ giá thép Nucor cũng đã khởi xướng làn sóng tăng giá tấm dày với mức tăng tương tự, 30 USD/tấn. Dự là trong tuần sau sẽ có nhiều nhà máy hưởng ứng theo quyết định này, vì họ tranh thủ tăng giá trước khi bước vào mù tiêu thụ trì trệ từ tháng 7 tới. Châu Âu Thị trường thép Châu Âu tiếp tục xu hướng suy yếu do sức mua nghèo nàn và người mua chỉ thu mua đủ dùng. Giá thấp tại Trung và Nam Âu vẫn gây sức ép mạnh cho khu vực Bắc Âu. Trước đó, tại hội nghị Eurometal, các quan chức đã dự báo rằng, giá sẽ không giảm sâu với điểm đáy là 500 Euro/tấn vì Nga đã rút khỏi thị trường nhập khẩu. Tuy nhiên, giá đã phá vỡ mốc tâm lý 500 Euro/tấn, giá giao dịch dưới mức 500 Euro/tấn. Chỉ có các nhà máy cấp 1 chào bán trên 500 Euro/tấn. Trong khi đó, Ấn Độ chiếm lĩnh thị trường nhập khẩu Châu Âu với giá chào 480-485 Euro/tấn CIF Antwep. Giá tấm dày Châu Âu cũng suy yếu với vài nhà máy chào bán tại mức 510-520 Euro/tấn (568.86-580.02 USD/tấn) xuất xưởng trong khi số khác chào ở mức 520-530 Euro/tấn cho thép tấm dày S275, được sử dụng rộng rãi ở Nam Âu. Hàng nhập khẩu không còn là mối đe dọa thực sự nữa sau các chống bán phá giá gần đây cũng như giá nội địa giảm. Giá cho mặt hàng này ở mức 490-495 Euro/tấn CIF cảng Bắc Ý. Tuy nhiên, giá thép cuộn và phôi phiến giảm đã gây áp lực cho giá thép tấm dày. Thổ Nhĩ Kỳ Sau khi giáthép cây trong nước giảm trở lại do vấn đề nguồn cung hạn chế được giải quyết, các nhà xuất khẩu cũng lao đao vì mất thị trường và phải chiết khấu mạnh để kích cầu. Tuy nhiên, cho tới tuần này họ đã không dùng biện pháp này nữa mà thay vào đó là chờ đợi. Các nhà máy đang cố gắng tìm kiếm khách hàng từ các thị trường xuất khẩu chính như Mỹ, UAE, và Châu Phi. Tuy nhiên, sức mua vẫn còn rất yếu ớt khi các nước như Mỹ, Ai Cập đều chống bán phá giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ. Dù vậy, giá chỉ giảm nhẹ từ 440 USD/tấn FOB xuống 425-430 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Các nhà máy HRC duy trì giá niêm yết nội địa và xuất khẩu ổn định cho thép sản xuất tháng 7, trong bối cảnh sức mua vừa phải. Giá niêm yết HRC tháng 7 ổn định ở mức 510-520 USD/tấn xuất xưởng, với giá giao dịch ở mức 500-510 USD/tấn xuất xưởng kèm chiết khấu. Giá xuất khẩu vẫn thấp hơn 20 USD/tấn trong bối cảnh tiêu thụ thấp trước hè, đặc biệt là ở Châu Âu. Giá chào nhập khẩu từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ ở mức hiện tại 455-465 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ. Dù vậy, có đồn đoán rằng các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang chuẩn bị tăng giá niêm yết thép tháng 8 thêm 15 USD/tấn. Nếu HRC tăng thì giá thép mạ cũng sẽ tăng theo. CIS Phôi thanh CIS tăng nhẹ trong tuần nhờ tiêu thụ ổn định từ Ai Cập mặc dù bị kháng cực bởi các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang cạnh tranh với CIS tại thị trường nhập khẩu Ai Cập. Các nhà máy chào giá tối thiểu là 400 USD/tấn FOB Biển Đen. Các khách hàng Ai Cập chấp nhận mức này, hoặc 395 USD/tấn. Các thị trường Bắc Phi khác bao gồm cả Algeria cũng ở mức tương tự nhưng giá tới Thổ Nhĩ Kỳ thấp hơn. Các nhà máy thép cuộn vẫn kiên trì bám vào mức giá chào mới trong tuần này cho thép cuộn tháng 7 giao tháng 8, tuy nhiên vẫn phải kháng cự từ người mua do giá họ đưa ra thấp hơn nhiều so với giá bán. Chào giá tới Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 460-465 USD/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương 445-450 USD/tấn FOB Biển Đen. Chào giá tới Châu Âu ở mức 430 Euro/tấn CIF Nam Âu và 435 Euro/tấn DAF cảng Ba Lan. Trong khi đó, chào giá tới Ai Cập đã tăng mạnh hơn so với Thổ Nhĩ Kỳ với giá chào từ một nhà máy Nga là 480-485 USD/tấn CFR Ai Cập. Dù vậy, khách hàng Ai Cập chào mua ở mức 460 USD/tấn CFR Ai Cập, tương đương 435-440 USD/tấn FOB và chưa nhận được phản hồi. Nhật Bản Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) quyết định duy trì giá thép dầm hình H cho các hợp đồng tháng 6 (sản xuất vào tháng 7) để chờ cho mức tăng gần đây được người mua chấp nhận. Công ty này dự định tăng thêm 5.000 Yên/tấn cho tất cả các loại thép và mức tăng 2.000 YÊN/tấn tháng trước là một phần trong kế hoạch. Tuy nhiên, các nhà môi giới vẫn chưa chấp nhận trả đầy đủ khoản này. Cán cân cung-cầu thắt chặt và sức mua ổn định. Doanh số bán ra trong tháng 5 có giảm so với tháng 4 nhưng vì lễ tuần lễ vàng hồi đầu tháng. Các nhà máy EAF Nhật Bản thường bảo dưỡng máy móc trong tháng 7 hoặc tháng 8 để tiết kiệm nguồn năng lượng đắt đỏ. Điều này giúp thắt chặt nguồn cung và hỗ trợ giá tăng. Giá tại Tokyo ổn định ở mức 75.000-76.000 Yên/tấn (682-691 USD/tấn), không đổi so với tháng trước. Trong khi đó, nhà máy Kobe Steel Nhật đã quyết định nâng giá tấm mỏng trong nước thêm 5.000 Yên/tấn (45 USD/tấn) cho các lô hàng giao ngay từ tháng 6 tới các nhà máy cán lại và sản xuất ống thép. Công ty cũng dự tính tăng giá cùng mức cho các khách hàng ký hợp đồng dài hạn (himotsuki). Cộng với mức tăng lần này, Kobe đã tăng tổng cộng 25.000 Yên/tấn kể từ tháng 3/2016. Công ty này giải thích rằng, họ cần tăng để bù đắp chi phí tăng và bảo toàn lợi nhuận. Các khách hàng đã chấp nhận trả thêm nhưng về phía nhà máy vẫn còn khó khăn khi muốn chuyển hết khoản chi phí tăng vào giá thép. Giá HRC sau khi tăng là 70.000 yên/tấn.Giá tấm cắt cán nóng (dày 1.6mm, 1.219x2.438mm) hiện tại ở Tokyo là 69.000-71.000 Yên/tấn (627-645 USD/tấn), tăng 9.000 Yên/tấn so với cách đây 1 năm. Ấn Độ Nhu cầu tiêu thụ HRC Ấn Độ vẫn im ắng do người mua trì hoãn đơn hàng với mong muốn giải phóng hàng tồn trước khi Chính Phủ áp dụng thuế mới vào ngày 1/7. Theo thông báo của Chính quyền Ấn Độ, kể từ đầu tháng sau, hai loại thuế VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ không còn nữa mà thay vào đó là thuế GST 18%. Do đó,các thương nhân đang bận rộn với việc cập nhật hệ thống thanh toán cho phù hợp thuế mới. Giá hiện tại cho HRC IS 2062 3mm xuất xưởng Mumbai ở mức 35.500-36.500 Rupess/tấn (552-568 USD/tấn) đã tính phí vận chuyển, tương đương 41.934-43.115 Rupees/tấn đã tính 5% VAT và 12.55 thuế tiêu thụ đặc biệt. Mùa mưa (tháng 6-8) vốn là mùa tiêu thụ thấp điểm cho thép Ấn Độ, nên giá HRC sẽ còn suy yếu. Sức mua dường như chỉ cải thiện nhẹ vào tháng 7 khi người mua đặt hàng trở lại. Đài Loan Nhà sản xuất thép cây Đài Loan, Feng Hsin Iron & Steel, đã buộc phải tăng giá thép cây trong nước lên 200 Đài tệ/tấn (6.7 USD/tấn) trong tuần để bù đắp chi phí mua phế liệu cao. Theo đó, giá của Feng Hsin đối với thép cây đường kính 13mm tiêu chuẩn tăng lên 14.500 Đài tệ/tấn cho các đơn hàng tới 16/6. Đồng thời, giá mua phế liệu HMS1&2 80:20 cũng tăng 200 Đài tệ/tấn lên 7.000 Đài tệ/tấn. Đài Loan thường trải qua bão và mưa lớn trong Q3, và các sự kiện thời tiết như vậy có xu hướng làm giảm tiêu thụ thép trong nước, đặc biệt là từ các dự án xây dựng. Do đó, triển vọng giá vẫn còn áp lực.
- Daily: Bảng giá HRC & CRC
- Bản tin VIP
- Monthly: Tổng hợp thép thế giới
- Daily:Tin thế giới
- Dailly: Bản tin dự báo hàng ngày
- Weekly:Dự báo xu hướng thép Thế giới
- Weekly:Dự báo xu hướng thép TQ
- Dailly:Giá Trung Quốc
- Weekly: Tổng hợp tin tức tuần
- Weekly:Bản tin thép xây dựng
- Dailly:Giá chào xuất nhập khẩu
- Daily:Giá thế giới
- Dailly:Hàng cập cảng
- Weekly:Thị trường thép Việt Nam
- Daily:Điểm tin trong ngày
- Monthly:Tổng hợp thị trường thép TQ
- Tin Tức
- Kinh Doanh
- Kinh tế
- Chuyên ngành thép
- Danh bạ DN