Mỹ
Tuần thu mua phế tháng 9 đã bắt đầu tại Mỹ và kết quả không được như mong đợi. Sau trận bão Harvey, nguồn cung phế vụn trở nên dồi dào hơn và các nhà máy thép đã gây áp lực yêu cầu giữ nguyên giá phế bằng mức tháng 8.
Tại thị trường thép cuộn, giá CRC đã bắt đầu tăng trưởng sau khi cứ ì ạch những tuần trước. Biên độ giá mở rộng do vài nhà máy đẩy giá chào lên cao nhằm đặt giá giao dịch ở mức 810 USD/tấn. Thậm chí vài đơn hàng nhỏ còn được chốt ở mức 850 USD/tấn.
Trong khi đó, HRC vẫn ổn định ở mức 630-650 USD/tấn với các đơn hàng lớn có thể chốt mức 620 USD/tấn. Nhà máy AK Steel đã công bố tăng giá HRC thêm 30 USD/tấn song vẫn chưa có nhà máy nào hưởng ứng theo do giá phế không tăng được như mong đợi.
Thổ Nhĩ Kỳ
Giá chào bán thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng trong tuần nhờ giá nguyên liệu thô như điện cực tăng, cộng với tiêu thụ cải thiện từ vài nước Châu Phi đang tái thu mua cho mùa xây dựng cũng như vài khách hàng Châu Âu thu mua trở lại. Giá chào bán tầm 550-560 USD/tấn FOB.
Tương tự, các nhà máy HRC Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng mạnh giá chào bán cho thép giao tháng 11 do xu hướng mạnh lên của thị trường thế giới. Giá chào HRC trong nước tăng tới 30 USD/tấn, lên 610-620 USD/tấn xuất xưởng tùy vào khối lượng đơn hàng.
Trong khi đó, chào giá CRC cũng tăng. Giá chào mới nhất từ một nhà máy là 725 USD/tấn, tăng tầm 35 USD/tấn. Giá niêm yết các nhà máy khác tăng lên 715-740 USD/tấn xuất xưởng.
Các nhà máy HDG cũng tăng giá thêm 30-40 USD/tấn tùy thuộc vào độ dày, dựa vào giá HRC tăng, đạt mức 835 USD/tấn cho loại 0.5mm và 770 USD/tấn cho loại 1mm.
CIS
Sau lễ Eid ở các thị trường xuất khẩu chính, các nhà máy phôi thanh Biển Đen tiếp tục tăng giá trong tuần này để thử nghiệm thị trường. Hai nhà máy Ukraina đặt mục tiêu giá 520 USD/tấn FOB giao tháng 10, tăng 10 USD/tấn so với tuần trước. Tuy nhiên, giá chào mua từ Thổ Nhĩ Kỳ chỉ tầm 520 USD/tấn CNF Thổ Nhĩ Kỳ và cao hơn 10 USD/tấn từ Ai Cập.
Các nhà máy phôi phiến cũng tăng giá chào từ mức 485 USD/tấn FOB tuần trước lên 510 USD/tấn FOB nhưng chưa được chấp nhận.
Tại thị trường HRC, các nhà máy CIS tăng giá chào bán lên 590 USD/tấn FOB Biển Đen và đặt mức tối thiểu là 575 USD/tấn FOB. Giá tối đa người mua chấp nhận chỉ 580 USD/tấn FOB. Trong khi đó, giá chào CRC tầm 620-625 USD/tấn FOB Biển Đen với mức phí bảo hiểm tối thiểu 40-45 USD/tấn.
Châu Âu
Chi phí đầu vào gia tăng cộng với nhu cầu tiêu thụ tăng trở lại sau hè hỗ trợ giá thép dài Tây Bắc Âu tăng mạnh trong tuần này. Các giao dịch thép cây 12mm trên thị trường ở mức 525 Euro/tấn, tăng 10 Euro/tấn so với tuần trước, gần bằng mức giá chào 530-540 Euro/tấn.
Với giá phế và điện cực tăng, cộng với nguồn cung thắt chặt và thời gian giao hàng dài hơn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà máy tăng giá chào bán. Thép hình loại 1 tăng lên 540 Euro/tấn. Các nhà máy đang nhắm tới mức giá 550-560 USD/tấn và thậm chí còn cao hơn. Giá thép thanh thương phẩm cũng tăng 10-15 USD/tấn, lên 120-130 USD/tấn, mặc dù mức 115 Euro/tấn vẫn còn được chấp nhận.
Các nhà máy HRC tăng giá chào bán lên 530-550 Euro/tấn xuất xưởng sau lễ. Do hàng nhập khẩu đặt mua lúc này sẽ cập bến vào Q1 năm sau và giá gần với giá trong nước nên các khách hàng Châu Âu cho biết họ sẽ mua thép trong nước trong Q4. CRC vẫn chưa thể tăng với giá chào tầm 630 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Trong khi đó, các nhà sản xuất ô tô và các nhà máy thép cuộn đang trong tiến trình đàm phán đơn hàng cho năm tới. Tại Nam Âu, các nhà máy đặt mục tiêu tăng giá tấm mạ kẽm nhúng nóng thêm 100-120 Euro/tấn cho năm 2018 nhưng các trung tâm dịch vụ cung cấp OEMs chỉ tăng dự thầu thêm 50-60 Euro/tấn.
Tại thị trường Đức, các đàm phán đang tiếp tục, với đàm phán HDG gay gắt nhất. Các nhà máy đặt mục tiêu giá 680-700 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr ở thị trường giao ngay và sử dụng nó để làm đòn bẩy cho các hợp đồng hàng năm. Quan điểm giữa bên bán và mua tiếp tục trái ngược nhau.
Nhật Bản
Giá thép cây Nhật tăng nhờ tâm lý thị trường mạnh và các nhà máy kiên quyết giữ giá. Giá thép cây cỡ cơ bản tại Tokyo ở mức 59.000-60.000 Yên/tấn (542-551 USD/tấn), tăng 1.000 Yên/tấn so với cuối tháng 8 trong khi giá tại Osaka ở mức 57.000-58.000 Yên/tấn, tăng 3.000 Yên/tấn so với cuối tháng 8. Do chi phí sản xuất đang tăng nên các nhà máy đặt ưu tiên tăng giá để vượt qua chi phí.
Trong khi đó, tại thị trường thép không gỉ, nhà máy Nippon Steel và Sumikin Stainless (NSSMC) quyết định duy trì giá cuộn cán nguội và tấm dày austenit tháng 9, nhưng sẽ cắt giảm giá ferritic xuống 10.000 Yên/tấn (92 USD/tấn).
Công ty giải thích rằng giá nickel trung bình trong tháng 7-tháng 8 tăng 0.43 USD/lb so với tháng 6-tháng 7, lên 4.61 USD/lb trong khi giá ferrochrome trung bình giảm 22 cent/lb cùng giai đoạn, còn 118 cent/lb. Tuy nhiên, đồng yên tăng giá so với đồng đô la Mỹ trong giai đoạn này,công thức phụ phí cho thấy phải giữ giá austenit và cắt giảm ferritic.
Giá thị trường của CRC 304 dày 2mm ở Tokyo khoảng 340.000 Yên/tấn (3.125 USD/tấn) và 430 USD/tấn (2.482 USD/tấn) ), không thay đổi so với cách đây một tháng.
Ấn Độ
Các nhà máy thép Ấn Độ tăng giá HRC trong tuần này dựa vào giá nguyên liệu thô và thép thế giới tăng.
HRC IS 2062 3.0mm xuất xưởng Mumbai tăng thêm 2.000 Rupees/tấn (31 USD/tấn) so với những tháng trước, lên 38.500-39.500 Rupees/tấn (600-616 USD/tấn) đã tính phí vận chuyển, tương đương 45.430-46.610 Rupees/tấn đã tính 18% thuế GST.
Các khách hàng Ấn Độ không có chọn lựa nào khác ngoài việc chấp nhận giá này dựa vào sự khan hiếm nguồn cung ở vài khu vực. Nhập khẩu HRC vào Ấn Độ giảm trong khi các nhà máy Ấn Độ tăng xuất khẩu, nên dẫn tới thiếu hụt nguồn cung trong nước.
Đài Loan
Các nhà máy thép cây ở Đài Trung và Đài Nam đã quyết định duy trì giá chào bán trong tuần này trong bối cảnh tiêu thụ thép suy yếu.
Nhà máy Feng Hsin duy trì giá niêm yết thép cây cỡ chuẩn 13mm tại mức 17.100 Đài tệ/tấn (567 USD/tấn) xuất xưởng ở Đài Trung cho tuần 4-8/9. Chỉ có vài người mua nên không thực tế khi cho rằng người mua sẽ tiếp tục nếu giá cứ đà tăng. Các nhà máy Đài Loan đang theo dõi sát sao giá Trung Quốc và sẵn sàng điều chỉnh giá.
Nhà máy CSC Đài Loan thông báo tăng giá tấm mỏng thêm 3.000-5.000 Yên/tấn (28-46 USD/tấn) giao vào tháng 10-tháng 12 cho các khách hàng Nhật. Giá tấm mỏng các thị trường khác tăng mạnh hơn ở Nhật Bản nên CSC đang cố gắng điều chỉnh giá xuất khẩu tới Nhật bằng với các khu vực khác.
Giá HRC Đài Loan xuất khẩu hồi tháng 7 ở mức trung bình 62.991 Yên/tấn CIF, tăng 20.439 Yên/tấn so với cùng kỳ năm ngoái và 246 Yên/tấn so với tháng 6. CRC ở mức trung bình 72.432 Yên/tấn CIF, tăng 20.086 Yên/tấn so với cùng kỳ năm ngoái và 203 Yên/tấn so với tháng 6.