Nhật Bản
Thép cây: Các nhà sản xuất thép cây trong khu vực đã bị ảnh hưởng bởi một cơn bão lớn đổ bộ vào phía tây Nhật Bản vào đầu tháng 9, khiến một số nhà máy bị hư hại và trì hoãn lịch giao hàng do lũ lụt. Nguồn cung thép cây ở Osaka đã trở nên khan hiếm hơn và khách hàng đã bắt đầu chuẩn bị cho việc giao thép cây vào cuối năm nay hoặc đầu năm tới, vì vậy thị trường đã trở nên sôi động. Giá thị trường của thép cây cỡ cơ bản tại Osaka,miền tây Nhật Bản tăng 1.000 Yên/tấn (9 USD/tấn) trong tuần này lên 67.000-68.000 Yên/tấn (598- 607 USD/tấn), lần tăng đầu tiên kể từ tháng Bảy. Giá thị trường hiện tại của thép cây cỡ cơ bản ở Tokyo là khoảng 74.000-75.000 Yên/tấn, tăng 1.000 Yên/tấn so với cuối tháng 9.
CRC và thép tấm austenitic: Tập đoàn thép không gỉ Nippon Steel & Sumikin của Nhật Bản (NSSC) hôm thứ Năm đã giảm giá tháng 10 cho thép cuộn cán nguội và thép tấm không gỉ austenitic tới các nhà phân phối xuống khoảng 5.000 Yên/tấn (44 USD/tấn), nhưng vẫn giữ nguyên giá CRC ferritic không đổi.
Giá thị trường hiện tại cho tấm cán nguội loại 304 dày 2 mm ở Tokyo là khoảng 370.000 Yên/tấn (3.248 USD/tấn), cho loại 430 mm dày 2 mm là khoảng 430.000 Yên/tấn và thép tấm loại 304 dày hơn 7 mm tầm 510.000 Yên/tấn - tất cả đều không đổi so với một tháng trước.
Ấn Độ
HRC: Các nhà máy hàng đầu của Ấn Độ cho thấy sự tự tin trong việc giữ giá không đổi, với nhu cầu mạnh mẽ chủ yếu đến từ phân khúc cơ sở hạ tầng. Giá đã tăng vọt vào đầu tháng do chi phí cao. S & P Global Platts định giá HRC IS2062 dày 2.5-10 mm giao tới Mumbai với giá 4.700 Rupee/tấn (640,54 USD/tấn) hôm thứ Tư, không bao gồm Thuế Hàng hóa và Dịch vụ 18% (GST), không thay đổi so với định giá của tuần trước.
Châu Âu
Thép dài: Giá thép dài châu Âu dự kiến sẽ tăng trở lại từ mức của tháng trước do giá đã mất trung bình khoảng 10 euro/tấn chủ yếu do áp lực nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ. Định giá thép cây hàng tuần của Platts đứng ở mức 545 euro/tấn, xuất xưởng Ruhr, tuần trước.
Thổ Nhĩ Kỳ
Phế: Giao dịch tại thị trường nhập khẩu phế của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn duy trì trong một phạm vi hẹp nhất định trong tuần này, khi một loạt các giao dịch mới được báo cáo.
Giá bán một lô hàng 20.000 tấn HMS 1/2 (75:25), 5.000 tấn vụn, 7.000 tấn HMS 1, 2.000 tấn busheling và 6.000 tấn phế sạch rebar từ EU đến một nhà sản xuất thép ở Marmara có mức trung bình 325 USD/tấn, tương đương 326,25 USD/tấn CFR. Khu vực Baltic đã bán một lô hàng cho một nhà máy tại Iskenderun hôm thứ Tư, HMS 1/2 (80:20) với giá 329 USD/tấn CFR.
Chào giá bán vẫn duy trì mạnh mẽ với một chảo giá xuất khẩu của Đức cho HMS 1/2 (75:25) với giá 325 USD/tấn, trong khi Baltic đang chào bán HMS 1/2 (80:20) ở mức 335 USD/tấn CFR.
Thị trường tiếp tục bất đồng về những động thái giá sắp xảy ra trong những ngày tới. Người bán cho rằng giá bán sẽ trên 330 USD cho HMS 1: 2 80/20. Trong khi người mua cho rằng các chào giá mới nhất không phản ánh thực tế thị trường và giá giảm trong vòng10 đến 15 ngày tới.
Thép dài: Một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ và các nhà tích trữ cắt giảm giá niêm yết bằng đồng lira do đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ tăng liên tục so với đồng đô la Mỹ.Giá thép cây 12-32 mm ở Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm xuống mức 3.600-3.650 Lira/tấn, bao gồm 18% VAT, trong bối cảnh nhu cầu thấp trên thị trường. Giá niêm yết mới trong nước của nhà máy, tuy nhiên, tương đối ổn định trên cơ sở đồng đô la vào khoảng 510 USD/tấn xuất xưởng, trong bối cảnh giá phế nhập khẩu tăng mạnh và chi phí đầu vào nhà máy tăng. Trong khi đó các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang cố gắng thúc đẩy giá xuất khẩu đi lên vốn đã xuống dưới mức 500 USD/tấn FOB tuy nhiên giá chào mua vẫn dưới mức 500 USD/tấn FOB.
Tại thị trường phôi, giá billet trong nước của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 485- 490 USD/tấn xuất xưởng, trong khi người mua vẫn kháng cự giá chào phôi billet của các nhà máy CIS mặc dù có một số giảm giá trong tuần này vì giá thành phẩm vẫn ở mức thấp.
Tấm mỏng: Giá HDG cạnh tranh của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục duy trì nhu cầu ổn định trên thị trường EU. Vì mới chỉ có một phần tư hạn ngạch của EU đối với HDG nhập khẩu đã được lấp đầy cho đến nay, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ kỳ vọng xuất khẩu HDG sang EU vẫn giữ vững chãi trong những tháng tới.Tuy nhiên vấn đề dòng tiền trên thị trường nội địa, cũng như cạnh tranh gia tăng trong thị trường thép cuộn Thổ Nhĩ Kỳ với công suất mới và giá HRC trong nước và nhập khẩu suy yếu vẫn tiếp tục ảnh hưởng giao dịch thép cuộn mạ trong nước, gia tăng áp lực giảm giá, nguồn tin ghi nhận.
Chào giá trong nước cho HDG DX51D với lớp phủ kẽm 70-100 gram/mét vuông, 0,50 mm, trong khoảng 690-720 USD/tấn xuất xưởng, giảm 10-15 USD/tấn trong tuần, tùy theo khối lượng , do nhu cầu trong nước chậm chạp. Giá niêm yết HDG xuống thêm 15 USD/tấn trong tuần này theo đó chào giá cuộn lớp mạ kẽm 140 gram/mét vuông, 0,50 mm HDG, ở mức 740-745 USD/tấn FOB cho thị trường xuất khẩu.
Chào giá trong nước cho HRC ở mức 560- 565 USD/tấn, tùy thuộc vào trọng tải, giảm thêm 5 USD/tấn trong tuần, với nhu cầu tại thị trường nội địa còn chậm. Doanh số bán hàng HRC mới nhất cho EU được cho là trong cùng một mức giá. Giá chào bán CRC từ một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 630 USD/tấn trong tuần này, nhưng không thể xác nhận thông tin.
Giá CRC trong nước và xuất khẩu của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ giảm nhẹ trong những ngày gần đây, trong bối cảnh nhu cầu thấp cả ở thị trường trong nước và xuất khẩu và giá HRC trong nước và nhập khẩu thấp hơn.
Một nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu chào giá CRC cho cả thị trường trong nước và xuất khẩu ở mức thấp nhất là 625 USD/tấn trong tuần này, trong khi giá chào bán của các nhà máy khác đã giảm xuống còn 630-650 USD/tấn. Chào giá CRC của nhà máy CIS đến Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi đó, cũng giảm hơn nữa xuống mức thấp 595-605 USD/tấn CFR tuần này, trong bối cảnh nhu cầu tiếp tục chậm chạp.
Mỹ
Tấm mỏng: Giá thép cuộn của Mỹ ổn định do thị trường bắt đầu chấp nhận giá cao hơn được công bố bởi một số nhà máy trong nước. US Steel đã trở thành nhà sản xuất thép thứ hai chính thức tăng giá thép tấm mỏng của Mỹ thêm 40 USD/st, sau một động thái tương tự của Nucor. Trên Bờ Tây, California Steel Industries cũng cho biết rằng sẽ tăng giá tấm mỏng thêm 40 USD/st.
Còn quá sớm để biết liệu thông báo tăng giá của các nhà máy có dẫn đến giá cao hơn hay không, nhưng động thái này được dự kiến sẽ thiết lập một mức sàn cho giá tấm mỏng đang suy yếu đã giảm trong những tháng gần đây kể từ khi chạm mức đỉnh 920 USD/st trong tháng 7. Một nguồn tin trung tâm dịch vụ cho biết các chào giá giao ngay đã tăng 30 USD/st so với mức báo giá tuần trước. Còn các nhà máy đang nhắm mục tiêu định giá HRC ở mức tối thiểu là 840 USD/st trong tương lai.
Tấm: Một số người mua tấm Mỹ vẫn chưa bắt đầu đảm bảo nhu cầu tháng 12 từ các nhà máy trong nước. Thị trường dự kiến giá sẽ duy trì ổn định ở mức 990 USD/st đã giao Midwest mặc dù người mua mong muốn mức giá trong phạm vi 960-980 USD/st đã giao.
Thép dài: Thị trường thép cây ở Mỹ đã nằm trong một phạm vi hẹp nhất định suốt những tháng mùa hè, và vẫn duy trì tình trạng này vào đầu quý IV. Chào giá nhập khẩu vào Houston hiện được cho là ngang bằng với giá trong nước, nhưng các nhà máy vẫn chưa thực hiện bất kỳ thay đổi nào về giá giao dịch.
Một số chào giá cho nguyên liệu nhập khẩu đã được nghe khoảng 35 USD/cwt (700 USD/st DDP) vào Houston.
Giá phế của Mỹ giảm trong tháng 8 và tháng 9 nhưng giá thép cây vẫn ổn định. Bây giờ, với phế đã tăng trở lại trong tháng 10 - tăng 20 đô la đối với prime và tăng 10 đô la đối với cut - có vẻ như cơ hội giá thép cây trong nước suy yếu đang giảm dần, đặc biệt với nhu cầu được nghe nói sẽ tăng trở lại vào cuối năm. Định giá hàng ngày của Platts cho thép cây Đông Nam tại 685-710 USD/st xuất xưởng. Định giá tuần của Platts cho thép cây Trung Tây vẫn ổn định tại 700-720 USD/st xuất xưởng.
CIS
Phôi: Giá phôi slab CIS đã giảm trong tuần qua sau khi giá HRC của CIS giảm. Nguồn cung slab phục hồi - sau khi hoàn thành công việc bảo dưỡng tại một số nhà máy của Nga - cũng đang gây sức ép giảm giá.Vào đầu tháng 10, xuất khẩu slab sang Thổ Nhĩ Kỳ đạt 490 USD/tấn CFR tương đương 475-480 USD/tấn FOB Black Sea và đặt mua từ Viễn Đông của Nga đạt 485 USD/tấn FOB, nhưng giá đã giảm 15 USD/tấn trong bối cảnh tâm lý giảm.
Tuy nhiên 480 USD/tấn cho slab không còn được coi là khả thi với giá giao dịch có thể được thực hiện ở mức tối đa 465-470 USD/tấn FOB Biển Đen. giá ở mức 575-580 USD/tấn FOB, tăng 2,50 USD/tấn mỗi ngày. Một nhà giao dịch có trụ sở tại châu Âu đưa ra một ước tính thấp hơn nữa là 440-460 USD/tấn FOB, tùy thuộc vào thị trường.
Thị trường phôi billet CIS nhìn chung trầm lắng, không có giao dịch mới. Giá chào bán nhà máy tại Nga là từ 470 USD/tấn đến 480 USD/tấn FOB, trong khi đó, chào bàn của Ukraina nằm trong khoảng 465-475 USD/tấn FOB. Trong khi đó bên mua cho rằng giá có thể giao dịch ở mức tương tự như giao dịch cuối cùng được thực hiện ở mức 460 USD/tấn FOB, do không có giá hỏi mua mới nào được nhìn thấy trên thị trường.
Tấm mỏng: Giá thép cuộn cán nóng của CIS tiếp tục giảm trong tuần này với mức thấp mới vẫn chưa được xem là cuối cùng. Đã đạt được một số doanh số bán hàng HRC ở mức 530 USD/tấn FOB Biển Đen, các nhà máy Nga hiện đang chào giá 525 USD/tấn FOB với giá bán dự kiến là 520 USD/tấn. Giá CRC vẫn ổn định ở mức 590 USD/tấn. Một nhà sản xuất thép cán phẳng Ukraine đã thu được các đơn hàng HRC với giá 528-530 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương 510-520 USD/tấn trên cơ sở FOB Biển Đen.