Châu Âu
Các nhà máy thép cây Nam Âu đặt mục tiêu tăng giá dựa vào chi phí phế tăng và đơn hàng tốt. Việc công bố giấy phép nhập khẩu từ Algeria cũng như tiêu thụ mạnh hơn ở Nam Âu có lợi cho các nhà máy Châu Âu nói chung và Ý và Tây Ban Nha nói riêng đang bán mạnh vào Đức và Pháp trước khi giá tăng. Giá phế tăng 5-10 Euro/tấn cũng giúp người bán lạc quan hơn.
Tuy nhiên, vấn đề vẫn còn sau khi Chính phủ Algeria công bố quy định nhập khẩu mới yêu cầu các nhà nhập khẩu phải có khoản tiền tạm ứng tại ngân hàng bằng 120% tổng giá trị lô hàng nhập khẩu vào thời điểm đăng ký. Một khi hai bên đồng ý giao dịch thì các nhà xuất khẩu phải đợi ít nhất 30 ngày trước khi vận chuyển hàng hóa.
Giá thép cây xuất khẩu được chào bán tại mức 490 Euro/tấn FOB, với phí vận chuyển 22-23 Euro/tấn cũng như lợi nhuận thương nhân và chi phí sản xuất (4-5 Euro/tấn và 2-3 Euro/tấn).
Các nhà máy thép cuộn Tây Âu cũng dự định tăng giá thép cuộn thêm 20-30 Euro/tấn cho các đơn hàng mới. Tuy nhiên, biên độ giá rộng cho thấy các nhà máy có quan điểm khác nhau với dự báo giá đi từ ổn định tới tăng mạnh.
Trong số các nhà máy cấp 1 lớn, giá chào HRC chủ yếu ở mức 550 Euro/tấn, 560 Euro/tấn và 570 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr. Hàng nhập khẩu không còn là vấn đề vì rất ít chào giá và các thương nhân không thấy thu hút. Chào giá hiện tại chủ yếu đến từ Thổ Nhĩ Kỳ, Hàn Quốc và Ấn Độ.
Giá chào từ Ấn Độ vẫn ở mức 530-540 Euro/tấn CFR cho Bắc Âu và 505-510 Euro/tấn CFR Ý nhưng các nguồn tin đang chờ đợi các nhà máy Ấn Độ phản hồi.
Thị trường lạc quan nhất vẫn là HDG với các nhà máy cấp 1 ở Tây Âu thường chào giá 680 Euro/tấn xuất xưởng. Một nhà máy lớn chào bán các hợp đồng 6 tháng và năm tại mức 750 Euro/tấn, mức giá được xem là quá tham vọng vào lúc này.
CIS
Thị trường phôi thanh CIS suy yếu do áp lực cạnh tranh gia tăng giữa các nhà máy trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Thổ Nhĩ Kỳ và Ai Cập lại là thị trường xuất khẩu mục tiêu của CIS với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt tại khu vực Đông Nam Á.
Nhà máy Elektrostal mở thầu 10.000 tấn tại mức 475 USD/tấn FOB Mariupol thanh toán trước 10% giao tháng 12 tuy nhiên thị trường có tin đồn về các giao dịch ở mức 475 USD/tấn CFR Iskenderun. Một nhà máy Nga cho biết đã chốt một giao dịch tại mức 460 USD/tấn FOB Biển Đen. Giá chào mua từ Ai Cập ở mức 475 USD/tấn, trong khi một nguồn tin khác cho biết gần chốt giao dịch ở mức 455 USD/tấn FOB.
Giá xuất khẩu gang thỏi Biển Đen cũng suy yếu do người mua muốn chốt giá không đổi cho các lô hàng giao tháng 12. Giá chốt mới nhất là 355 USD/tấn CIF New Orleans, tương tự giá tháng 10. Các đơn hàng lớn tới Mỹ chốt giá 340- 345 USD/tấn CIF, nhưng đó là giá sàn. Một nhà máy cố gắng bán giá 345 USD/tấn CIF Mỹ nhưng đã bị khách hàng của mình từ chối.
Trong khi đó, một nhà máy Ukraina đã tìm cách tăng giá lên 365 USD - 370 USD/tấn CIF Mỹ/Ý từ giá chốt mới nhất 355 USD/tấn CFR. Các nhà máy cho biết giá được hỗ trợ từ nguồn cung giảm. Thay vì cung cấp 200.000 tấn/ tháng, một nhà máy chỉ chào 150.000 tấn/tháng còn 50.000 tấn sẽ được dùng cho sản xuất phôi phiến.
Mỹ
Giá nhập khẩu thép cây vào Mỹ tăng nhưng hoạt động giao dịch chậm do giá chào nhập khẩu cao hơn giá nội địa trong vài trường hợp nên không thu hút.Trong khi đó, nguồn cung thép có sẵn của các nhà máy đang tăng và giá chào trong nước ổn định ở mức 560-570 USD/tấn.
Tại thị trường thép cuộn, giá chào bán mở rộng do có vài người giảm giá chào xuống để kích cầu. Chào giá HRC khoảng 600-620 USD/tấn tùy vào nhà máy.
Giá giao dịch CRC tiếp tục ở mức 820 USD/tấn trong tuần này nhưng nghe nói vẫn có mức 790 USD/tấn.
Trong khi đó, nhà máy SSAB Americas đã thông báo tăng giá tấm dày thêm 40 USD/tấn vào hôm thứ hai theo Nucor, áp dụng ngay cho các đơn hàng mới dù giá tấm mỏng không hỗ trợ.
Bàn về các hợp đồng cuối năm, thị trường vẫn rối rắm về giá với các chiết khấu cho đơn hàng cuối năm trong khi hiện tại các nhà máy tăng giá. Trong năm nay, giá tấm dày đã giảm xuống thấp hơn tấm mỏng lần đầu tiên trong 9 tháng qua. Chào bán tấm dày A36 ở khoảng 620-630 USD/tấn.
Thổ Nhĩ Kỳ
Thị trường xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ chậm chạp do người mua sẵn sàng cho mùa tiêu thụ thấp điểm vào mùa đông và doanh số bán tới Đông Nam Á giảm.
Chào giá ở mức 525-530 USD/tấn FOB nhưng có giá thấp hơn. Một nhà máy lớn chào bán ở mức 515 USD/tấn FOB Marmara và đang chờ giá chào mua 510 USD/tấn FOB. Giá chào mua nhìn chung ở mức 500-510 USD/tấn FOB tùy vào nơi đến và đặc điểm kỹ thuật.
Tương tự, thị trường tấm mỏng cũng gặp áp lực tiêu thụ thấp khiến vài nhà má giảm giá để kích cầu. Một nhà máy đã giảm giá chào HRC trong nước xuống 560 USD/tấn. Giá chào trước đó của nhà máy này cao hơn 15-20 USD/tấn so với các nhà máy khác. Điều này có nghĩa rằng các nhà máy khác có thể sớm chào giá dưới 550 USD/tấn. Trong khi đó, giá chào xuất khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ thậm chí giảm xuống dưới 550 USD/tấn.
Các nhà máy thép mạ cũng giảm giá chào bán HDG theo HRC xuống thêm 10-15 USD/tấn. Giá niêm yết HDG đã giảm tổng cộng 150-160 USD/tấn kể từ cuối tháng 9.
Sau khi giảm, giá chào HDG 0.5mm còn700-705 USD/tấn xuất xưởng trong nước trong khi loại 1mm ở mức 650-655 USD/tấn xuất xưởng. Giá chào HDG 2.0mm ở mức 610-615 USD/tấn xuất xưởng.
Người mua hiện đang cố gắng hủy các đơn hàng giá cao trước đây. Giá giảm làm thị trường mất cân bằng. Thậm chí mức 690 USD/tấn xuất xưởng cho HDG 0.5mm cũng có sẵn cho các đơn hàng lớn.
Nhật Bản
Giá thép dầm hình H Nhật Bản tăng 1.000 Yên/tấn (9 USD/tấn) so với tuần trước. Các nhà phân phối kiên quyết giữ giá đã buộc người mua phải chấp nhận giá cao hơn.
Giá thị trường cho thép dầm hình H cỡ lớn ở Tokyo là 78.000-79.000 Yên/tấn (685-694 USD/tấn), tăng 1.000 Yên/tấn so với tuần trước và 3.000 Yên/tấn so với tháng 8.
Nhà máy mini Tokyo Steel Manufacturing đã tăng giá cho các hợp đồng giao dịch tháng 9 và 10 thêm tổng cộng 6.000 Yên/tấn nhưng giữ giá cho hợp đồng tháng 11. Đối thủ của họ là Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp tăng giá thép dầm hình H thêm 2.000 Yên/tấn cho các hợp đồng tháng 8 và 3.000 Yên/tấn cho các hợp đồng tháng 9 nhưng giữ giá cho hợp đồng tháng 10.
Nhờ sự vắng mặt của Trung Quốc, các nhà xuất khẩu phôi thanh Nhật nhận được nhiều lợi thế ở thị trường Châu Á. Giá xuất khẩu hiện tại tới các nước Châu Á là 53.000-54.000 Yên/tấn FOB. Chi phí sản xuất tầm 50.000 Yên/tấn với 15.000 Yên/tấn cho luyện gang và 31.000-32.000 yên/tấn cho giá mua phế, cộng 4.000 Yên/tấn cho chi phí vận tải. Kiếm lời được 3.000-4.000 Yên/tấn là đã quá tốt cho các nhà máy phôi thanh.
Nippon Steel & Sumikin Stainless đã quyết định tăng giá CRC và tấm dày không gỉ tháng 11 do chi phí hợp kim tăng.
Giá của nhà máy cho CRC và tấm dày không gỉ tăng 15.000 Yên/tấn (131 USD/tấn) trong khi CRC Ferrite tăng 5.000 Yên/tấn.
NSSC không công bố giá niêm yết nhưng giá thị trường cho tấm cán nguội 304 dày 2mm ở Tokyo là 340.000 Yên/tấn (2.975 USD/tấn) và tấm cán nguội 430 dày 2mm là 270.000 Yên/tấn (2.362 USD/tấn). Giá cho tấm dày 304 trên 7mm ở Tokyo là 510.000 Yên/tấn (4.462 USD/tấn), không đổi so với tháng trước.
Nhu cầu tiêu thụ mạnh và hàng nhập khẩu giảm đang là yếu tố đẩy giá tấm dày Nhật tăng.
Giá thị trường cho tấm dày SS400 19mm (1,524 x 3,480mm) tại Tokyo tăng 1.000 Yên/tấn so với cuối tháng 10, đạt mức 86.000-87.000 Yên/tấn (754-763 USD/tấn) và 2.000 Yên/tấn so với cuối tháng 8.
Nhu cầu tiêu thụ tấm dày từ các nhà đóng tàu giảm nhưng rõ ràng tiêu thụ có tăng từ các ngành khác. Các nhà máy tấm dày đang bận rộng sản xuất cho các khách hàng dài hạn và giới hạn nguồn cung tới thị trường giao ngay. Cán cân cung-cầu trên thị trường thép tấm đang thắt chặt và các khách hàng phải chấp nhận giá cao hơn để mua được hàng.