Châu Âu
Thị trường thép dài Châu Âu im ắng trong tuần với giá cả ít biến động trước cuối năm. Các nhà máy vẫn lạc quan nhờ đơn hàng tăng.
Giá giao dịch thép hình loại 1 ở mức 585-595 Euro/tấn. Giá đã tăng khoảng 15 Euro/tấn kể từ tháng 10, với các nhà máy được cho là đã thu được đơn hàng đặt cho sáu tuần tới.
Các nhà máy vẫn hướng tới mục tiêu giá 600 Euro/tấn trong hai tháng vừa qua và đã dần dần cải thiện. Tuy nhiên, các nguồn tin vẫn phân vân về khả năng giá có thể chạm mức này vào cuối năm nay hay không. Thị trường đã chưa đạt được 600 Euro/tấn kể từ tháng 1/2013.
Thép thanh thương phẩm được cho là yếu nhất trong các loại thép dài do tiêu thụ yếu ớt. Giá giảm chỉ là vấn đề thời gian, có thể là tháng sau.
Giá thép cây hầu như ổn định, trong khi các nhà máy của Ý cho biết đã nhận đủ đơn hàng cho đến cuối tháng 12. Các nguồn tin cho rằng giá sẽ ổn định cho đến cuối năm.
Tại thị trường thép cuộn, các nhà máy Nam Âu đang giữ vững giá chào bán và có ý định tăng giá.
Giá nhập khẩu từ hai nước này đã tăng 10 Euro/tấn lên 510-515 Euro/tấn CFR Tây Ban Nha.
Giao dịch thép tấm Qúy 1 được thúc đẩy đàm phán trong tuần, nhưng nhiều nhà máy và trung tâm dịch vụ chưa sẵn sàng ra cam kết. Các khách hàng muốn giữ giá hoặc chỉ tăng vừa phải còn người bán muốn tăng giá mạnh nên hai bên vẫn trong giai đoạn đàm phán.
Một nhà phân phối cho biết ở Đức, người mua sẵn sàng đặt mua HRC ở mức 530 Euro/tấn. Mức 540 Euro/tấn chưa được chấp nhận còn 550 Euro/tấn thì không thể nào.
Thị trường hầu như tin tưởng về triển vọng giá Q1 với hàng nhập khẩu dự báo giảm và các dữ liệu kinh tế vĩ mô mạnh giúp tiêu thụ tăng. Tuy nhiên, một số lo ngại thị trường Trung Quốc có thể sụp đổ vào Q2 và dẫn tới đảo ngược xu hướng giá toàn cầu.
Mỹ
Sau khi các nhà máy thông báo tăng giá thêm 30 USD/tấn hồi đầu tháng, thị trường tấm mỏng Mỹ tiếp tục tăng trưởng nhờ triển vọng giá phế tăng.
Giá chào bán HRC dao động trong khoảng 610-630 USD/tấn, thậm chí có người chào tới 640-650 USD/tấn giao tháng 1. Tương tự, CRC cũng tăng lên 810-830 USD/tấn với vài giao dịch chốt ở mức 800 USD/tấn hồi đầu tuần.
Các nhà máy tấm dày Mỹ tiếp tục cố gắng thu giá cao từ phía người mua sau 2 lần thông báo tăng giá thêm 40 USD/tấn với tổng 2 lần tăng là 80 USD/tấn trong tháng 11. Vài nhà máy công bố giá ở mức cao 720 USD/tấn. Các nhà máy đang được hậu thuẫn bởi lực đẩy mạnh từ niềm tin giá phế tăng trưởng, dự báo thêm ít nhất 20 USD/tấn cho tất cả các loại phế vào tháng 12.
CIS
Giá phôi thanh Biển Đen vẫn tăng trưởng sau khi Bắc Phi đặt mua các lô hàng hồi đầu tuần. Tuy nhiên, Thổ Nhĩ Kỳ lại do dự trả thêm cho phôi thanh CIS.
Chào giá tới Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 490 USD/tấn CIF, tương đương 470 USD/tấn FOB Biển Đen giao tháng 12. Một nhà cán lại cho biết giá chào thậm chí đạt mức 495 USD/tấn CIF Marmara nhưng quá cao so với khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ.
Vài nhà máy CIS vẫn ngưng chào bán. Họ đã chào bán trước đó với mục tiêu giá là 490 USD/tấn FOB. Một nhà máy mini Ukraina vẫn đang chào bán 10.000 tấn phôi thanh tháng 12 có sẵn ở mức 480 USD/tấn FOB Mariupol. Giá chào mua đạt mức 470 USD/tấn FOB.
Trong khi đó, giá gang thỏi thương phẩm Biển Đen suy yếu do sức mua im ắng, nhất là từ thị trường Mỹ.
Giá có thể giao dịch tại thị trường Ý được cho quanh mức 350 USD/tấn CIF, không nằm trong khoảng 360-365 USD/tấn CIF. Giá chào bán cho thị trường Mỹ tương đương 340 USD/tấn FOB Biển Đen/Biển Baltic nhưng không có giao dịch trong tuần.
Thổ Nhĩ Kỳ
Các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã bán hết thép tháng 1 nhờ tiêu thụ nội địa mạnh do vài loại thép cây bị hụt hàng. Giá thép cây nội địa đã tăng lên mức cao 545-550 USD/tấn xuất xưởng sau các lần tăng thành công trong mấy tuần qua.
Các nhà máy cũng tăng giá chào xuất khẩu lên mức cao 535-540 USD/tấn FOB với vài giao dịch khối lượng nhỏ chốt ở mức này trong tuần. Một nhà máy cho biết đã bán ít thép tới Yemen với giá 540 USD/tấn FOB nhưng khối lượng lớn chỉ 530 USD/tấn FOB.
Xu hướng tăng trưởng trở lại của thép Trung Quốc hỗ trợ thị trường tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ, giúp giá ổn định trong tuần này sau khi giảm mạnh ở những tuần trước. Giá chào bán HRC trong nước tầm 550- 565 USD/tấn xuất xưởng với giá giao dịch nhìn chung ở mức 550-555 USD/tấn nhưng vẫn có giá 545 USD/tấn cho các đơn hàng lớn. Giá chào HRC xuất khẩu thấp hơn giá niêm yết nội địa 10-15 USD/tấn do tiêu thụ chậm chạp.
Giá chào CRC trong nước ở mức 650-670 USD/tấn xuất xưởng, ổn định so với tuần trước. Giá chào HDG 0.5mm tương tự cũng bình ổn ở mức 745-765 USD/tấn trong khi loại 1mm ở mức 685-700 USD/tấn xuất xưởng.
Nhật Bản
Giá tấm mỏng Nhật Bản tiếp tục tăng nhờ nhu cầu tiêu thụ và lượng chào mua tăng trong khi nguồn cung từ các nhà máy giảm và tồn kho thấp. Các nhà cung cấp ngoài nước cũng hạn chế xuất khẩu tới Nhật để ưu tiên bán vào nội địa. Trước đó, các nhà phân phối có thể dựa vào hàng nhập khẩu khi nguồn cung trong nước không đủ nhưng bây giờ thì không thể. Cân bằng cung-cầu thép tấm mỏng tại thị trường giao ngay thắt chặt, hỗ trợ giá.
Giá thị trường cho tấm cán nóng (dày 1.6mm 1.219x2.438mm) là 78.000-80.000 Yên/tấn (701-719 USD/tấn), tăng 1.000 Yên/tấn so với tháng trước và 9.000 Yên/tấn so với tháng 4. Giá tấm cán nguội (dày 1mm, 914x1.828 mm) là 83.000-85.000 Yên/tấn cũng tăng 1.000 Yên/tấn so với tháng trước và 7.000 Yên/tấn so với tháng 4.
Giá tấm dày cũng tiếp tục tăng nhờ các nhà máy lớn tăng giá trong mấy tuần gần đây và tiêu thụ mạnh trong mùa xây dựng.
Giá thị trường cho tấm dày SS400 19mm (1.524 x 3.480mm) tại Tokyo ở mức 86.000-87.000 Yên/tấn (772-781USD/tấn) tăng 1.000 Yên/tấn so với cuối tháng 10.
Hầu hết các nhà máy tấm dày đều tăng giá hoặc đang tìm cách tăng giá, buộc các nhà môi giới phải chọn lựa đơn hàng nhận vào. Một người cho biết muốn giá bán tới 90.000 Yên/tấn vào cuối tháng 12 nếu như chưa thể tăng được trước thời điểm đó.
Nhà máy Nippon Steel và Sumitomo Metal Corp đã tăng 3.000 Yên/tấn cho các đơn hàng giao ngay từ tháng 10. Nhà máy mini Tokyo Steel Manufacturing đã tăng giá tấm dày tháng 12 thêm 3.000 Yên/tấn sau khi đã tăng giá trước đó cho tháng 9 và 10 thêm tổng cộng 5.000 Yên/tấn.
Ấn Độ
Giá HRC Ấn Độ ổn định so với tuần trước do nhu cầu tiêu thụ tiếp tục suy yếu. Các nhà máy Ấn Độ đang đặt mục tiêu xuất khẩu ra ngoài nước. Giá HRC IS 2062 2.0mm giao tới Mumbai vẫn ổn định ở mức 37.250-38.250 Rupees/tấn (572-588 USD/tấn). Với thuế trung ương 2% và 5% VAT, giá gần mức 39.895-40.965 Rupees/tấn.
Nhu cầu tiêu thụ tiếp tục trì trệ mặc dù dự báo giá tăng sau lễ hội (tháng 10-tháng 11). Phần lớn các nhà tiêu thụ cuối đang trong tình trạng thiếu thanh khoản. Tuy nhiên, các nhà máy Ấn Độ không quá lo lắng về tình trạng đơn hàng trong nước nghèo nàn vì sẽ tập trung xuất khẩu. Các nhà máy chào bán HRC SAE 1006 tại mức 560 USD/tấn CFR Việt Nam. Họ ưa chuộng việc thanh lý hàng tồn ra ngoài nước hơn là trữ tại kho dựa vào sức mua trong nước chậm chạp.
Đài Loan
Nhà máy China Steel Corp (CSC) đã quyết định tăng giá thép trung bình thêm 327 Đài tệ/tấn (10.90 USD/tấn) cho các lô hàng quý tới, theo phát biểu của nhà máy sau cuộc họp hàng quý hôm thứ hai để quyết định giá bán tới khách hàng hạ nguồn.
Lần tăng này nhỏ hơn nhiều so với mức 1.144 Đài tệ/tấn (5.6%) hồi tháng 8 cho Qúy 4 hiện tại, tuy nhiên đánh dấu Qúy tăng thứ hai liên tiếp. Cuối tháng 5, CSC thông báo giảm giá 1.142 Đài tệ/tấn cho Qúy tháng 7-tháng 9.
Trong số các sản phẩm chính, nhà máy này tăng giá tấm dày lớn thêm 455 Đài tệ/tấn còn HRC tăng 214 Đài tệ/tấn. Nhà máy CSC cũng tăng thêm 100 Đài tệ/tấn cho HDG.
Giá tăng phản ánh sự tăng trưởng của thị trường thế giới nhưng chưa bắt kịp sự gia tăng chi phí đầu vào. Nhà máy này muốn đảm bảo các nhà tiêu thụ hạ nguồn có thể cạnh tranh với giá các nước khác nên quyết định giữ giá CRC và mạ điện từ Qúy này.