Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Jiujiang Iron & Steel, một công ty xuất khẩu ở tỉnh Hà Bắc, đã giảm giá niêm yết trong nước hàng tuần cho thép dây xuống 15 NDT/tấn còn 2.300 NDT/tấn (345 USD/tấn) xuất xưởng và gồm VAT. Tại thị trường giao ngay Thượng Hải cùng ngày, cuộn trơn Q195 6.5mm được định giá 2.430-2.440 NDT/tấn (364-366 USD/tấn) xuất xưởng và gồm VAT, giảm 50 NDT/tấn (7,5 USD/tấn) so với tuần trước đó.
Sau khi giảm mạnh 35 NDT/tấn trong ngày đầu tuần, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm tăng lại 5 NDT/tấn vào ngày thứ Ba lên 2.475-2.495 NDT/tấn (371-374 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT và giữ ở mức này cho tới thứ Tư nhờ sự phục hồi của hợp đồng giao kỳ hạn, và đánh dấu lần tăng đầu tiên sau khi sụt giảm trong 4 ngày giao dịch liên tiếp. Nhưng liệu thị trường giao ngay có kéo dài bền vững hay không thì hãy còn quá sớm để nói vì sự phục hồi vào mùa thu vẫn có vẻ như khá chậm và chỉ giúp hỗ trợ hạn chế cho thị trường giao ngay mà thôi.
Thép công nghiệp
Trong khi đó tại thị trường Thượng Hải, thép tấm SS400 12-30mm được giao dịch phổ biến ở mức giá 2.500-2.520 NDT/tấn (375-378 USD/tấn) hôm thứ Tư, giảm 85 NDT/tấn so với cuối tháng 8. Một thương nhân cho biết sức mua trên thị trường thép tấm giao ngay đã chậm lại do giá giảm.
CRC SPCC 1.0mm ở trong nước được định giá 3.360-3.400 NDT/tấn (504-510 USD/tấn), giảm 10 NDT/tấn so với tuần trước đó. Các thương nhân trong nước cho biết giá đã thực sự bình ổn kể từ đầu tuần này.
Trái ngược với sự sụt giảm của thị trường xuất khẩu, giá HRC trong nước đã phục hồi trở lại, cụ thể là giá đã tăng 20 NDT/tấn và 10 NDT/tấn lần lượt vào thứ Ba và Năm. Tại thị trường Thượng Hải hôm 22/9, Q235 5.5mm HRC được định giá 2.720-2.730 NDT/tấn (408-409 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, tăng 30 NDT/tấn so với tuần trước đó.
Thị trường xuất khẩu
Giá cuộn trơn giao ngay tại Châu Á tiếp tục rớt từ ngày 15-21/9, vì niềm tin thị trường suy yếu khi nhìn thấy các nhà cung cấp Trung Quốc hạ chào giá một lần nữa sau khi nghỉ Tết Trung thu. Hôm 21/9, Platts định giá thép dây dạng lưới 6.5mm là 341-343 USD/tấn FOB, giảm 4 USD/tấn so với 1 tuần trước đó. Hai nhà máy lớn ở miền bắc Trung Quốc đã hạ chào giá xuống 350 USD/tấn FOB, giảm 10 USD/tấn so với tuần trước. Chào giá phổ biến từ các nhà máy khoảng 345-350 USD/tấn FOB.
Giá thép tấm dày trong nước suy yếu đang khiến giá xuất khẩu giảm theo trong tháng này. Vào thứ Tư, giao dịch thép tấm vẫn còn thưa thớt và dẫn đến một số nhà xuất khẩu được khảo sát bởi Platts tin rằng giá xuất khẩu vẫn có khả năng sẽ rớt thêm nữa. Chào giá cho thép tấm SS400 12-30mm từ các nhà máy Trung Quốc vẫn phổ biến trong khoảng 350-355 USD/tấn FOB giao vào cuối tháng 11 hay đầu tháng 13. Mức giá này đã giảm hơn 10 USD/tấn so với chào giá vào cuối tháng 8. Thậm chí như vậy thì chào giá này vẫn không thể thu hút được hầu hết người mua ở nước ngoài.
Giá xuất khẩu cho CRC xuất xứ Trung Quốc ổn định kể từ đầu tuần trước, khi các nhà sản xuất do dự cắt giảm giá xuất khẩu do thị trường trong nước tương đối tốt hơn. Platts định giá CRC SPCC 1.0mm ở mức 430-435 USD/tấn FOB Trung Quốc hôm thứ Ba, không đổi so với tuần trước đó. Giá xuất khẩu giữa CRC với HRC là 58,5 USD/tấn.
Thị trường HRC xuất khẩu tiếp tục lao dốc trong tuần này khi các nhà máy hạ chào giá với sức mua yếu và giá hỏi mua thấp hơn. Thị trường mất niềm tin và rất thận trọng nên lượng giao dịch thưa thớt. Tính chung cả tuần, SS400 HRC 3.0mm đã bốc hơi 5 USD/tấn xuống còn 367-373 USD/tấn FOB.
Giá thép cây giao ngay tại châu Á tiếp tục rớt 3 USD/tấn xuống còn 331-335 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế trong ngày đầu tuần sau khi Trung Quốc mở cửa lại sau lễ, vì người mua muốn đợi thị trường rõ ràng hơn. Các nhà xuất khẩu Trung Quốc đã hạ chào giá do niềm tin thị trường yếu ớt. Người mua đã chọn cách nán lại việc thu mua do những bất ổn về triển vọng. Sau khi duy trì được 2 ngày sang đến thứ Năm giá tiếp tục rớt 3 USD/tấn vì các nhà máy đã hạ chào giá của họ xuống để thu hút sự quan tâm từ phía người mua. Đến thứ Năm, thép cây BS500 đường kính 16-20mm chốt ở mức 328-332 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, giảm 6 USD/tấn so với tuần trước đó.