Mỹ
Giá HRC Mỹ đã giảm nhẹ tuần này do người mua tiếp tục cho rằng thị trường suy yếu cũng như thời gian vận chuyển của các nhà máy tương đối ngắn. Platts chốt HRC hằng ngày còn 395-420usd/tấn ngắn xuất xưởng. Giá chốt CRC không đổi ở mức 550-570/tấn ngắn. Giá hai mặt hàng này đều được định giá theo giá cơ bản xuất xưởng ở khu vực Midwest (Indiana).
Nhà cung cấp phế Mỹ đã từ chối mức giá chào mua thấp hơn từ các nhà máy Đài Loan đưa ra hôm thứ Tư và chốt giá bán phép lô nhỏ hôm thứ Năm ở mức 160usd/tấn CFR Đài Loan cho loại HMS 80:20. Mức giá này bằng với mức giá bán trước Tết. Mức giá này tương đương với giá trước Tết âm lịch. Định giá của Platts cho phế HMS 80:20 (container) bờ tây Mỹ tăng 1 USD/tấn trong ngày thứ Năm lên 148 USD/tấn FAS cảng Los Angeles.
Giá xuất khẩu phôi thanh CIS vẫn duy trì mức 245-255 USD/tấn FOB Biển Đen ít nhất là trong một thời gian ngắn, khi giá mới được hỗ trợ bởi các nhà xuất khẩu Trung Quốc đang quay lại thị trường thế giới sau kỳ nghỉ Tết.
Giá thép thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 314 USD/tấn FOB giảm 3,5 USD/tấn so với tuần trước, phản ánh sự sụt giảm trong sức mua.
Thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ nhìn chung vẫn còn im ắng kể từ tuần trước, khi nhiều khó khăn tài chính vẫn đang tiếp diễn từ những biến động trong tỷ giá hối đoái tiếp tục làm hạn chế việc giao dịch. Tuy nhiên, giá niêm yết của các đại lý đã mạnh lên trong ngày thứ Ba do sự rớt giá của đồng lira trong tuần này.
Giá thép cây ở trong nước đã tăng 20 TRY/tấn (7 USD/tấn). Giá bán thép cây đường kính 8-12mm của các đại lý ở khu vực Marmara nằm trong khoảng 1.150-1.170 TRY/tấn xuất xưởng (bao gồm 18% VAT), trong khi giá ở khu vực Iskenderun, miền nam nước này là 1.120-1.130 TRY/tấn; thế nhưng vẫn có thể giảm giá cho những đơn hàng khá lớn.
Giá phế nhập khẩu nhìn chung vẫn còn ổn định ở trong mức 174-176 USD/tấn CFR cho phế HMS 1&2 80:20 kể từ tuần trước.
Mặc dù một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm giá bán trong nước và xuất khẩu cho thép cuộn mạ xuống thêm 10-20 USD/tấn hồi tuần trước để kích cầu nhưng sức mua ở thị trường trong nước cho đến tuần này vẫn còn thấp. Nhu cầu xuất khẩu cũng không có dấu hiệu phục hồi; trong bối cảnh sự cạnh tranh khốc liệt.
Giá niêm yết trong nước của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho HDG dày 0.5mm là 540-570 USD/tấn xuất xưởng trong tuần này, trong khi chào giá cho PPGI 9002 0.5mm vẫn khá ổn định ở mức 640-670 USD/tấn xuất xưởng kể từ tuần trước.
Tuy nhiên, chào giá xuất khẩu của các nhà máy cho HDG vẫn còn thấp hơn đáng kể và ở mức 490-520 USD/tấn FOB, trong khi chào giá cho PPGI 9002 0.5mm duy trì mức 590-620 USD/tấn FOB, giữa bối cảnh nhu cầu tiếp tục yếu và sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ ở những thị trường xuất khẩu chính của Thổ Nhĩ Kỳ.
Chào giá HRC của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tới thị trường trong nước tuần này là 315-325 USD/tấn xuất xưởng (sản xuất tháng 03), tăng 5 USD/tấn so với tuần trước đó; nhưng vẫn có sẵn một số chào giá dưới 310 USD/tấn một chút. Chào giá xuất khẩu HRC của họ vẫn dưới 300 USD/tấn FOB, trong bối cảnh sức mua thấp và sự cạnh tranh khốc liệt.
Thị trường CRC Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục bị sức ép từ những vấn đề tài chính và sức mua trì trệ, nên các nhà máy không nâng giá niêm yết của họ mặc dù mức tồn kho rất thấp. Nhìn chung các nhà máy trong nước đang chào bán CRC trong khoảng 405-420 USD/tấn xuất xưởng kể từ tuần trước, trong khi chào giá xuất khẩu vẫn còn thấp hơn tới 20 USD/tấn, cho thấy sức mua tiếp tục thấp từ hầu hết các thị trường xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ cộng thêm sự cạnh tranh khốc liệt.
Giá HRC khu vực phía bắc Châu Âu tuần này ở mức 320-330 euro/tấn xuất xưởng Ruhr. Thị trường HRC này tương đối khá yên tĩnh với các nhà tích trữ hàng và các trung tâm dịch vụ chờ đợi các mời chào nhập khẩu mới trước khi xác nhận mức giá cao hơn. Nhập khẩu hiện vẫn ở mức 295-305euro/tấn CIF Antwerp mặc dù hầu như không có hoạt động mua bán nào diễn ra với giá chào từ Iran ở mức thấp nhất của mức giá này. Các nhà máy Nga chào bán ở mức 300euro/tấn CFR.
Trong khi đó
Thị trường tấm EU đang không có nhu cầu phục hồi đáng kể để thúc đẩy giá trong quý một năm nay. Đồng thời những áp lực liên tục từ sự cạnh tranh mạnh từ hàng nhập khẩu và nội bộ cũng góp phần vào một triển vọng ảm đạm cho sự phục hồi giá đáng kể hơn trong vài tháng tới. Giá thép tấm nội địa ở mức 350-360euro/tấn xuất xưởng Ruhr. Hàng nhập khẩu chốt ở mức không đổi là 280-290euro/tấn CIF Antwerp.
Thị trường thép cây ở Bắc Âu đã đi xuống khi bị sức ép bởi giá phế sụt giảm và sức mua tiếp tục suy yếu. Thị trường càng thêm bị áp lực sau khi giá phế vụn ở đây giảm 13 USD/tấn trong tháng 02 xuống còn 150-160 EUR/tấn. Các nhà máy Italia hiện đang cố gắng giữ chào giá của họ ở mức 320 EUR/tấn FOB và cao hơn, nhưng một số chào giá từ các nhà cung cấp khác thì thấp hơn chỉ có 305-315 EUR/tấn FOB. Platts định giá thép cây giảm 3 USD/tấn trong ngày thứ Ba xuống còn 345-355 USD/tấn xuất xưởng Tây Bắc Âu.
Các nhà sản xuất thép Ấn Độ bị buộc phải duy trì giá HRC trong nước cho tuần này. Nguyên nhân là do sức mua vẫn còn thấp sau khi các nhà sản xuất đẩy giá lên trong suốt tuần trước. Theo đó, Platts định giá IS HRC 2062 A/B 3mm vẫn ở mức 24.500-25.000 Rupees/tấn (357-364 USD/tấn) xuất xưởng.
Đài Loan
Feng Hsin Iron & Steel, đã quyết định giảm giá niêm yết với hy vọng sẽ kích thích doanh số để bảo vệ thị phần của mình ở quanh khu vực Taichung trong bối cảnh sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ ở Tainan hay miền nam Đài Loan. Theo đó giá niêm yết của Feng Hsin cho thép cây đường kính 13mm giảm 400 Đài tệ/tấn (12 USD/tấn) xuống còn 11.200 Đài tệ/tấn xuất xưởng Taichung. Đồng thời, công ty đang mua phế HMS 1&2 (80:20) với giá thấp hơn 300 Đài tệ/tấn còn 4.800 Đài tệ/tấn. Tuy nhiên giá bán của Feng Hsin vẫn chênh lệch 400 Đài tệ/tấn tấn trong giá giao dịch thực tế giữa thép thanh của công ty với giá của các đối thủ ở miền nam Đài Loan.