Mỹ
Trong tuần đầu tiên tháng 3, thị trường thép và phế Mỹ nhìn chung lại tiếp tục suy yếu và có xu hướng dần ổn định hơn trở về cuối tuần. Trong đó, thép thanh là mặt hàng duy nhất có giá cải thiện.
Sau khi giảm mất 15-20 USD/tấn trong xuyên suốt tuần, đến ngày cuối tuần, giá phế vụn đã chững lại nhờ vào nguồn cung thắt chặt. Gía giao dịch phế vụn tại Southeat là 380-385 USD/tấn dài trong khi tại Pittsburgh, giá đạt mức cao 395 USD/tấn dài. Các nhà xuất khẩu Bờ Biển Đông vẫn tiếp tục chào bán hàng vào nội địa do thu được nhiều lợi hơn là bán hàng xuất khẩu ra các nước tronh bối cảnh suy yếu chung toàn cầu.
Các nhà sản xuất tấm mỏng Mỹ hiện đang nỗ lực duy trì giá đáy sau khi giá giao dịch HRC rơi xuống mức thấp 620 -630 USD/tấn do một vài nhà máy muốn thúc đẩy doanh số bán hàng. Thị trường hiện vẫn nghiêng về xu hướng chờ đợi sau sự kiện 2 nhà máy ArcelorMittal và Nippon Steel and Sumitomo Metal Corp. (NSSMC) hợp tác thu mua lại nhà máy Calvert, Alabama của ThyssenKrupp. Được biết, đây là cơ sở sản xuất HRC có trang thiết bị hiện đại bậc nhất. Tuy nhiên, liệu việc mua lại này có đam lại những ảnh hưởng tích cực hay không vẫn còn là một gợi mở.
Trong khi đó, thị trường thép dầm có vẻ ổn định hơn do nguồn cung thắt chặt và nhu cầu tiêu thụ tương đối tốt. Tuy nhiên, các nhà máy cũng chiết khấu 20-30 USD/tấn. Gía chào nhập khẩu cũng trở nên thu hút với chào bán từ Tây Ban Nha, Hàn Quốc và Luxembourg thấp hơn giá nội địa từ 80-90 USD/tấn.
Như đã đề cập, thị trường thép thanh thương phẩm Mỹ đang rẽ theo một lối riêng mặc dù vẫn còn tồn tại nhiều áp lực kìm hãm giá. Platts tăng giá thép thanh thương phẩm tháng 3 lên mức 783-793 USD/tấn.
Thổ Nhĩ Kỳ
Tình hình chính trị Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tồn đọng nhiều bất ổn sau các cáo buộc tham nhũng của Chính Phủ nước này. Hầu như người mua vẫn trong tâm lý chờ đợi. Tuy nhiên, xu hướng thị trường muốn rõ ràng hơn phải chờ cho tới khi các cuộc bầu cử nước này hoàn thành vào cuối tháng 3.
Mặc dù sức mua manh mún, nhưng giá phế Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ổn định nhờ vào các lô hàng giao nhanh cho những người cần mua gấp. Một lô hàng hỗn hợp gồm phế A3 (HMS 1&2 80/20) và phế bonus ( HMS 1&2 (85/15) đã được bán từ Biển Bantic sang Thổ Nhĩ Kỳ với giá 355-356 USD/tấn CFR Vịnh Nemrut. Giá chào từ Biển Đen tăng lên mức 355-360 USD/tấn FOB, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có ai chấp nhận trả giá này.
Trong khi đó, áp lực hàng nhập khẩu giá rẻ và cầu yếu đã kéo giá HRC giảm. Chào giá HRC trong nước đạt mức 560-570 USD/tấn xuất xưởng đối với hàng giao tháng 4 đã gồm chiết khấu trong khi giá từ các nhà môi giới là 585-595 USD/tấn. Các nhà máy cũng hạ giá chào xuất khẩu xuống mức thấp 560 USD/tấn FOB trong đầu tuần nhằm mở rộng thị phần và tranh thủ hưởng lợi từ sự cắng mặt của các chào giá từ Ukraina.
Tại thị trường thép cây, tình hình có vẻ tốt hơn với giá xuất khẩu tăng lợi dụng khủng hoảng tại Ukraina. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang chào bán thép cây xuất khẩu tại mức 560-565 USD/tấn FOB.
CIS
Thị trường CIS trong tuần qua liên tục vấp phải những khó khăn khi mà chính trị Ukraina vẫn còn nhiều bất ổn, Nga đã có những biểu hiện quay lưng với láng giềng Ukraina trong khi đồng Rub Nga cũng suy yếu, làm mất sức hút với hàng nhập khẩu vào thị trường này.
Cuộc khủng hoảng chính trị tại Ukraina đã khiến cho nguồn cung phôi thanh sụt giảm, tuy nhiên, thị trường vẫn trong vùng bế tắc do người mua tiếp tục kháng cự lại chào giá tăng từ các nhà máy. Khoảng cách giá phôi thanh giữa người mua và người bán hiện tại là 10-20 USD/tấn.
Gía chào bán phôi thanh tới thị trường Bắc Phi đạt mức 515-520 USD/tấn CIF, tương đương với 490-495 USD/tấn FOB Biển Đen, trong khi tại Ý, giá chào mua chỉ đạt mức 510 USD/tấn CFR-485 USD/tấn FOB Biển Đen.
Thị trường xuất khẩu thép cuộn Biển Đen diễn biến khá trầm lắng và có rất ít giao dịch do các nhà máy thép lớn đã sớm bán hết hàng tháng 3 của mình .
Nhà xuất khẩu HRC lớn nhất nước Ukraina đang nỗ lự duy trì giá chào bán không đổi so với tháng trước, tại mức 520 USD/tấn FOB Biển Đen. Trong khi đó, nhà máy Magnitogorsk Iron & Steel Works (MMK) Nga hạ giá chào bán xuống 10 USD/tấn, còn 400 Euro/tấn FOB Biển Đen tại thị trường Châu Âu và 535 USD/tấn Fob Biển Đen đối với các thị trường khác
Trong khi đó, thép cây và cuộn trơn tháng 3 vẫn còn có sẵn trên thị trường. Chào bán thép cây tháng 3 tiếp tục không quá mức 520 USD/tấn FOB Biển Đen đối với khách hàng Châu Phi trong khi cuộn trơn tháng 3 vẫn có sẵn với khách hàng Địa Trung Hải và Châu Phi tại mức giá 540-550 USD/tấn FOB Biển Đen.
Châu Âu
Trong bối cảnh suy yếu của nền kinh tế toàn cầu nói chung và ngành thép nói riêng, thị trường thép Châu Âu cũng đang trải qua thời kỳ suy thoái.
Kể từ tuần qua, thị trường thép cây nội địa lẫn xuất khẩu Nam Âu đều đã suy yếu. Giá thép cây Ý giảm 5-10 Euro/tấn, còn 200-205 Euri/tấn xuất xưởng trong khi tại Tây Ban Nha, theo công bố chỉ số thép cây hàng tháng trong ngày 25/2, giá đã đạt mức thấp nhất 182.23 kể từ tháng 7/2013 với giá giảm 3%so với tháng trước đó.
Tại thị trường xuất khẩu, giá cũng giảm bình quân 10 Euro/tấn, còn 440 Euro/tấn FOB tùy thuộc vào xuât xứ.
ở Algeria, giá cũng giảm nhẹ như Tosyali chào bán thép cây tại mức 57.500 Dinars/tấn đã gồm thuế VAT (539 Euro/tấn) trong khi Annba chào bán tại mức 59.500 Dinars/tấn
Thị trường thép tấm Châu Âu cũng rơi vào trạng thái tĩnh và giá chỉ có thể nhích thêm vài Euro trong một số trường hợp. Đối với loại thương phẩm, chỉ một vài nhà môi giới chấp nhận trả thêm 10 Euro/tấn, với giá mua đạt mức 540 Euro/tấn.
Cùng thời điểm, tại Tây Bắc Âu vẫn có các đơn hàng đạt mức 520-530 Euro/tấn. Trong đó, giá 520 Euro/tấn là loại tấm S235. Định giá Platts với thép tấm Châu Âu vẫn cố định tại mức 517.5 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Trong khi đó, giá chào nhập khẩu vẫn cố định với chào giá từ Trung Quốc là 515-520 USD/tấn FOB Trung Quốc trong khi hàng từ Ukraina là 540-560 USD/tấn FOB Biển Đen. Bên cạnh đó, cũng có các chào giá ở mức 435 Euro/tấn CIF Iberia đối với tấm Ukraina và 420 Euro/tấn CIF Antwerp từ Trung Quốc. Platts hạ giá nhập khẩu thép tấm xuống 5 Euro/tấn, còn 430 Euro/tấn CIF Antwerp.
Nhật Bản
Thị trường thép Nhật Bản tuần này tương đối êm ả trừ thông tin Tokyo Steel Manufacturing mua phế ferrite xuống 500-1.000 Yên/tấn (4,9-9,8 USD/tấn) cho tất cả các loại’ có hiệu lực kể từ thứ Ba, tại 4 trong số 4 nhà máy của công ty này. Trong đó, Utsunomiya, cò mức giá giảm mạnh nhất là 1.000 Yên/tấn cho tất cả các loại trử phế HS chỉ giảm 500 Yên/tấn; và theo đó gía phế H2 giao tới đây là 33.000 Yên/tấn (324,8 USD/tấn). Riêng gía phế giao tới Kyushu là không đổi.
Các nhà máy khác như Kanto Steel ở Ibaraki, phía bắc Tokyo, đã bắt chước động thái của Tokyo Steel cũng giảm giá mua ở mức tương tự 500 Yên/tấn hôm thứ Ba.
Giá phế giảm do nguồn cung dồi dào sau khi Daisan Steel tại Kanto chính thức đóng cửa từ hồi cuối tháng Hai. Ngoài ra, nhà máy Funabashi của Godo Steel tại Chiba, phía đông Tokyo cắt giảm sản lượng trong tháng này chỉ còn 20 ngàn tấn so với sản xuất trung bình 50 ngàn tấn. Nguồn cung phế tại khu vực Kanto hiện nay tiếp tục dồi dào nên dự đoán giá sẽ còn giảm thêm nữa.
Tại thị trường thép không gỉ, Nippon Steel & Sumikin Stainless (NSSC) đã thông báo sẽ giữ giá CRC và thép tấm không gỉ trong nước ổn định cho những hợp đồng trong tháng 03 và không đưa ra lí do cụ thể. Tuy nhiên trước đó, NSSC từng cho biết giá niken bình quân trong tháng 02 tăng nhẹ trong khi đồng Yên Nhật lại mạnh lên, khiến công ty phải hạ giá xuống 5.000 Yên/tấn (48,8 USD/tấn) cho CRC và thép tấm austenite. Nhưng được biết nhu cầu hiện nay tăng mạnh khiến giá cơ bản tăng lên do vậy giá phục hồi lại như cũ. Cụ thể, CRC loại 430 của NSSC sẽ vẫn duy trì không đổi vì ferrochrome hàm lượng cacbon cao trong tháng 01 và 02 vẫn giữ nguyên giá 126 cents/lb.
Tuy nhiên, NSSC không tiết lộ giá niêm yết; theo nguồn tin thị trường thì giá trên thị trường hiện nay của CRC loại 304 dày 2mm tại Tokyo là khoảng 310.000 Yên/tấn (3.024 USD/tấn), cao hơn 10.000 Yên/tấn so với đầu tháng 01, trong khi CRC loại 430 vẫn duy trì tầm 240.000 Yên/tấn (2.341 USD/tấn).
Hàn Quốc
Trong tuần này, Posco Specialty Steel (Posco SS) đã thông báo là sẽ duy trì giá bán trong nước cho cuộn trơn và thép thanh không gỉ trong tháng 03 không đổi so với tháng 02. Công ty đã giữ giá bán trong nước không đổi kể từ tháng 07 năm ngoái tới nay.
Posco SS đã không tiết lộ một cách chính thức giá bán của mình nhưng theo các nguồn tin trong ngành ước tính giá của cuộn trơn loại 300-series là từ 3,4-3,5 triệu Won/tấn (3.195-3.289 USD/tấn). Đại diện công ty cho biết thêm nhu cầu hiện nay của những nhà tiêu dùng trực tiếp vẫn còn yếu mặc dù giá niken gần đây tăng.
Tại thị trường xây dựng, Nhu cầu cũng như giá thép cây tại Hàn Quốc đều tăng nhờ các cuộc đàm phán giá hợp đồng được ký kết gần đây. Hyundai Steel và các công ty xây dựng đã đi đến thống nhất mức giá cuối cùng vào tuần trước áp dụng cho các hợp đồng từ tháng 09 đến tháng 03, cũng như chuẩn bị cho màu tiêu thụ cao điểm.
Giá thép cây loại SD400 đường kính 10mm được sản xuất trong nước đang được chào bán với giá từ 660.000-680.000 Won/tấn (617-636 USD/tấn). Mức giá này tương đương với tuần trước nhưng giá trần lại tăng khoảng 5.000 Won/tấn (4,7 USD/tấn).
Đài Loan
Tại thị trường không gỉ, Tang Eng Iron Works vẫn duy trì giá bán tháng 03 ở trong nước đối với HRC và CRC không gỉ do chi phí sản xuất không đổi đồng thời cho biết sẽtăng sản lượng lên để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn. Theo đó, giá niêm yết giao trong nước của Tang Eng cho HRC loại 304 dày 2mm và CRC 2mm 2B lần lượt tại 76.000 Đài tệ/tấn (2.504 USD/tấn) và 80.000 Đài tệ/tấn. Còn giá xuất khẩu thì không được tiết lộ.
Tại thị trường thép xây dựng, Feng Hsin Iron & Steel tiếp tục giữ giá thép cây trong nước không đổi trong tuần này do giá các loại phế ít thay đổi trong tuần qua. Theo quyết định hôm thứ hai thì thép cây cỡ thường của Feng Hsin hiện đang có giá 17.400 Đài tệ/tấn (573 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung. Tuần trước, Feng Hsin cũng đã tăng giá thép cây thêm 200 Đài tệ/tấn.
Ấn Độ
Giá HRC tại thị trường nội địa Ấn Độ gần như vẫn không đổi trong tuần qua, nhu cầu từ ngành xây dựng bắt đầu phục hồi khi mùa đông lạnh lẽo ở nước này sắp kết thúc. Thị trường nhập khẩu không có tín hiệu khởi sắc mặc dù chào giá từ Trung Quốc đã giảm mạnh. HRC loại IS 2062 A/B dày từ 3mm trở lên có giá giao dịch bình quân 37.500-38.500 Rupee/tấn (606-622 USD/tấn) xuất xưởng, không đổi so với tuần trước. Mức giá này tương đương giá nhập khẩu 564-579 USD/tấn CFR Mumbai, trong đó thuế nhập khẩu là 7.5%.
Trong khi HRC SS400B tiêu chuẩn hàng hóa dày từ 3mm trở lên từ Trung Quốc trong tuần này được chào bán với giá khoảng 530-535 USD/tấn FOB Trung Quốc. Nếu tới Ấn Độ thì mức giá này sẽ tương đương ít nhất từ 565-570 USD/tấn CFR Mumbai.
Đông Nam Á
Thị trường nhập khẩu phôi thanh Đông Nam Á vẫn còn trì trệ. Hầu như không có sự chuyển biến gì trong hai tuần qua, thêm vào đó những đơn đặt hàng gần đây là để tái bổ sung hàng trong kho nhưng hầu hết các nhà cán lại vẫn giữ thái độ chờ đợi và nghe ngóng.
Nhiều chào giá phôi thanh Đài Loan đã được nâng lên 520 USD/tấn FOB trong tuần này. Giá phôi thanh tăng do giá phế và thép cây lên cao hơn tại Đài Loan. Chào giá hiện nay tại Indonesia là 520 USD/tấn CFR cho phôi thanh Trung Quốc và 530 USD/tấn CFR cho phôi thanh Biển Đen.
Một lô phôi thanh ước chừng 60.000-70.000 tấn của Đài Loan được đặt mua trong tuần trước với giá 505-510 USD/tấn FOB. Hơn 100.000 tấn phôi thanh Đài Loan được đặt mua bởi các nhà máy ở Indonesia và Thái Lan với giá khoảng 500 USD/tấn FOB trong tuần kết thúc ngày 21/02. Tuần trước, một vài giao dịch phôi thanh sản xuất bằng lò hồ quang điện từ Trung Quốc có khối lượng 5.000 tấn được bán tới Philippines với giá 524 USD/tấn CFR và 515 USD/tấn CFR cho phôi thanh sản xuất bằng lò cảm ứng.
Giá phôi thanh tiêu chuẩn hàng hóa đang phổ biến quanh 520-530 USD/tấn CFR Đông Nam Á. Một nhà máy Hàn Quốc đã bán 20.000 tấn phôi thanh tới một thương nhân với giá 518 USD/tấn FOB trong tuần kết thúc ngày 21/02, và nghe nói đã được bán lại với giá 536 USD/tấn CFR Philippines. Tuần trước, nghe nói một nhà máy Malaysia đã bán được hơn 30.000 tấn phôi thanh với giá 540 USD/tấn CFR Indonesia. Nhiều thương nhân nhận xét rằng hợp đồng này có lẽ là phôi thanh chất lượng cao hơn do những giao dịch phôi thanh nhập khẩu trước đó tới Indonesia chỉ đạt 530 USD/tấn CFR.
Trung Đông
Tại thị trường UAE, máy Emirates Steel (ESI) ở Abu Dhabi đã giữ giá thép cây tháng 03 bằng với giá hồi tháng 02 tại 2.241 AED/tấn (610 USD/tấn). Giá thép cây từ Thổ Nhĩ Kỳ được giao dịch tại mức 565 USD/tấn CFR Dubai giao tháng 04. Trong khi đó, đối thủ cạnh tranh Qatar Steel, được biết là đã chốt đơn đặt hàng sớm sau khi giá giảm 20 USD/tấn so với tháng trước còn 2.175 AED/tấn (592 USD/tấn) CPT Dubai. Nhà cán lại Conares đang bán với giá 2.210 AED/tấn (602 USD/tấn) giao tại Dubai.