Thổ Nhĩ Kỳ
Sau khi phục hồi nhẹ trong tháng 4 theo sau cuộc bầu cử, sang tuần này, thị trường thép Thổ Nhĩ Kỳ đã trở về bình ổn giá do sức mua suy yếu.
Tại thị trường thép mạ, giá chào bán PPGI 9002 0.5mm đạt mức 870-910 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào xuất khẩu là 850-870 USD/tấn FOB. Tương tự, giá chào bán HDG 0.5mm vẫn ổn định tại mức 770-790 USD/tấn xuất xưởng trong khi HDG là 740-750 USD/tấn xuất xưởng. Gía chào xuất khẩu HDG 0.5mm vẫn ở mức 750-760 USD/tấn FOB.
Tương tự, thị trường thép cuộn cũng bình ổn với giá chào bán CRC tháng 6 là 680-695 USD/tấn trong khi giá chào nhập khẩu gần đây nhất từ CIS là 620-650 USD/tấn CFR tuỳ thuộc vào trọng tải và nguồn gốc. Hầu như các thành viên thị trường đều dự báo giá sẽ đi ngang trong tháng 5. Trong khi đó, giá HRC tháng 6 từ các nhà máy nội địa cũng ổn định tại mức 580-590 USD/tấn xuất xưởng trong tuần này. Gía chào bán từ các nhà môi giới cao hơn, đạt mức 595-610 USD/tấn do nhu cầu tiêu thụ ổn định.
Trong khi đó, như một quy luật, giá phôi thanh nhập khẩu và trong nước Thổ Nhĩ Kỳ đều suy yếu do nguồn cung tăng trở lại cùng với việc Isdemir hoàn thành kế hoạch bảo trì lò cao số 4 trong 40 ngày và nối lại các đơn hàng từ tuần tới . Nhu cầu tiêu thụ phôi thanh hiện tương đối cao với giá dao động trong khoảng 525-540 USD/tấn xuất xưởng, trong khi giá chào nhập khẩu là 515-525 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, tuỳ thuộc vào cảng nhập khẩu.
Các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm giá chào bán ra thị trường do sức mua trì trệ và sẽ còn tệ hơn nữa khi Lễ ăn chay Ramadan đang tới gần. Gía chào bán từ các nhà máy đã giảm xuống còn 565-570 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ, tuy nhiên, một vài nhà máy cho biết sẵn sang chốt giá thấp hơn tuỳ thuộc vào trọng tải lô hàng. Còn tại thị trường Adu Dhabi , giá thép cây 6-8mm xuất xứ Thổ Nhĩ kỳ được bán tại mức giá bình quân là 2.625 AED/tấn (714.70 USD/tấn) trong tháng 3, không đổi so với tháng trước và là mức thấp nhất kể từ tháng 1/2013 khi giá bán lẻ là 2.500 AED/tấn. Tương tự, thép cây 10-25mm tại thị trường bán lẻ ổn định tại mức 2.300 AED/tấn đã bao gồm phí vận tải, mức thấp nhất 14 tháng.
Mỹ
Thị trường tấm mỏng Mỹ đang có những tín hiệu tích cực nhờ vào sức mua tăng và nguồn cung thắt chặt do các sự cố tại các nhà máy sản xuất hồi tháng trước. Thị trường mặt hàng này cũng đang chờ đón nhận một làn sóng tăng giá mới nhưng vẫn chưa có thông báo chính thức từ các nhà máy.
Các đơn hàng trọng tải trung bình tầm 500-1000 tấn HRC vẫn đạt mức 690 USD/tấn trong khi khả năng chiết khấu cho các lô hàng lớn hơn, giá còn 680 USD/tấn. Tuy nhiên, giá chào bán từ 3 nhà máy Steel Dynamics, North Star và Severstal đã tăng lên mức 700 USD/tấn.
Giá thép tấm dày giao ngay tại thị trường Mỹ cũng đã tăng lên sau khi 4 nhà máy trong nước thông báo tăng giá vào 2 tuần trước. Hiện tại, giá thép tấm cacbon và hợp kim cỡ thường đã tăng 25-40 USD/tấn và các giá chào thấp trước đó không còn nữa.
Trong khi đó, phế vụn suy yếu với giá tại Midwest tiếp tục giảm 15 USD/tấn còn tại Northeast và Southeast , giá giảm lần lượt là 10 USD/tấn và 10-12 USD/tấn dài. Sức mua từ Đài Loan cũng yếu đi do doanh số bán thép cây chậm, cộng với việc ngưng sản xuất bảo dưỡng máy móc. Một nhà máy Đài Loan đã mua tại mức giá thấp 345 USD/tấn CFR.
Giá thép ống OCTG Mỹ hiện đạt mức 900 USD/tấn nhưng bị kìm hãm bởi áp lực hàng nhập khẩu nên dự đoán giá có thể giảm xuống sớm.
Châu Âu
Giá chào thép ống hàn Châu Âu đã tăng nhẹ trong suốt 2 tuần qua theo sau tình hình ổn định duy trì trong suốt tháng 4. Dù vậy, nhu cầu tiêu thụ chỉ ổn định tại mức giá tương đối thấp và nguồn cung vẫn cao.
Giá chào thép ống hàn tại Bắc Âu hiện là 37-38 điểm chiết khấu , tăng 1 điểm chiết khấu so với giá đầu tháng 4. Có thể nhận thấy lý do chính đằng sau sự tăng giá nhẹ lần này là sự phục hồi của thị trường thép cuộn trong tháng 4, thậm chí có nhỏ. Các nhà máy Ý cũng tăng nhẹ giá chào bán, đạt mức 40 điểm chiết khấu.
Triển vọng tăng giá tấm mỏng không gỉ Châu Âu đã bị giới hạn do áp lực từ hàng nhập khẩu Trung Quốc . Trung Quốc đã nhập hơn 20 triệu tấn thép không gỉ/năm vào Châu Âu và dường như sẽ còn tăng thêm 8% nữa trong năm 2014.Hiện tại, giá thép tấm không gỉ 304 từ Anh tương đương mức 1.200 Euro/tấn. Đây có thể là mức giá cao nhất hiện tại ở Châu Âu.
Trong khi đó, giá thép cây tại Ý trong tuần này ổn định do thị trường chờ đợi xu hướng giá phế tháng 5 được rõ ràng hơn hướng về cuối tuần này. Giá chào chính thức thép cây từ các nhà máy là 200-210 Euro/tấn xuất xưởng cơ bản (450 Euro/tấn xuất xưởng thực tế),tuy nhiên, giá giao dịch vẫn chỉ đạt mức 190 Euro/tấn xuất xưởng cơ bản.
Gía phế dự báo ổn định mặc dù thị trường toàn cầu có xu hướng tiêu cực trong tháng 4. Trong tháng 4qua, các nhà máy mua phế vụn E40 Ý tại mức 290 Euro/tấn trong khi loại phế phái sinh E8 đạt mức 285 Euro/tấn.
CIS
Gía các mặt hàng thép tại CIS tuần này nhìn chung đều tăng nhờ vào việc các nhà phân phối tăng thu mua hàng do lo ngại giá tăng thêm nữa. Tuy nhiên, với những bất ổn chính trị tại Ukrain thì triển vọng thị trường vẫn còn nhiều bấp bênh, chưa chắn chắn.
Các nhà sản xuất thép công cụ Nga đã thành công trong việc tăng giá thép tháng thứ 3 liên tiếp. Họ đang bán thép thanh cán nóng sản xuất tháng 5 và một phần tháng 6 tại mức giá tăng 1.000-1.800 Rub/tấn (29-51 USD/tấn) so với tháng 4, tương đương mức tăng 6-10%/tháng. Gía chào bán thép thanh cán nóng 32-800mm cuối tháng 5 đã tăng tới mức 19.500-20.400 Rub/tấn (556-582 USD/tấn). Thép thanh 120-180mm hiện được chào bán tại mức 19.000-20.000 Rub/tấn . Tất cả các giá là xuất xưởng chưa tính 18% VAT.
Các nhà sản xuất thép cây Nga cũng thành công trong việc nâng giá bán thép cây nội địa sản xuất tháng 5 thêm 760-850 rub/tấn (21-24 USD/tấn), tăng tương đương 4% so với giá tháng Tư. Hiện tại, giá bán thép cây của các nhà máy Nga đã tăng lên mức 23.400-23.600 rub/tấn (655-660 USD/tấn) đối với thép đường kính 14mm và 23.800-24.000 rub/tấn (666-671 USD/tấn) cho thép đường kính 12mm, giao tới Moscow, đã bao gồm 18% VAT, tương đương 19.830-20.000 rub/tấn (555-560 USD/tấn) và 20.170-20.340 rub/tấn (564-569 USD/tấn) không bao gồm VAT. Platts đã tăng giá chốt hàng tuần cho thép cây nội địa Nga đường kính 14-12mm lên mức 19.850-20.250 rub/tấn (555-566 USD/tấn) CPT Moscow.
Các nhà máy thép cây/cuộn trơn CIS cũng tăng giá chào bán hàng tháng 6 thêm 5-10 USD/tấn, đạt mức lần lượt 530-540 USD/tấn và 560 USD/tấn FOB Biển Đen.
Trong khi đó, thị trường xuất khẩu phôi thanh CIS vẫn tương đối ổn định trải hết tuần do áp lực giá chào mua thấp và các nhà máy vẫn còn bán hàng sản xuất cuối tháng 5. Giá chào từ các nhà máy vẫn ổn định tại mức 500 USD/tấn FOB Biển Đen, tuy nhiên, các giao dịch nhìn chung vẫn ở mức 495 USD/tấn FOB Biển Đen hoặc dưới.
Nhật Bản
Nippon Steel & Sumikin Stainless (NSSC) đã quyết định sẽ nâng giá bán trong nước của CRC và thép tấm austenite cho những hợp đồng tháng 05 thêm 20.000 Yên/tấn (197 USD/tấn) trong khi giá CRC ferrite không đổi. Nhà máy này lý giải rằng niken đã tăng 0,78 USD/lb hồi tháng 04 lên 7,88 USD/lb khi Yên Nhật suy yếu nên bắt buộc họ phải tăng giá CRC và thép tấm austenite lên thêm 20.000 Yên/tấn.
Đối với những hợp đồng tháng 04, NSSC đã tăng thêm 20.000 Yên/tấn cho CRC austenite, 15.000 Yên/tấn cho thép tấm austenite và 10.000 Yên/tấn cho CRC ferrite.
NSSC không bao giờ tiết lộ giá niêm yết của mình nhưng theo các nguồn tin xác nhận thì giá trên thị trường hiện nay cho CRC loại 304 dày 2mm tại Tokyo quanh mức 320.000 Yên/tấn (3.146 USD/tấn), còn CRC loại 430 thì khoảng 240.000 Yên/tấn (2.360 USD/tấn), cả hai đều không đổi so với tháng trước.
Đông Nam Á
Nhập khẩu cuộn trơn Trung Quốc tới khu vực Đông Nam Á vẫn còn trì trệ trong suốt tuần mặc dù chào giá tiếp tục giảm sâu hơn xuống còn 505-510 USD/tấn CFR Việt Nam và Philippines.
Tại Việt Nam, các nhà nhập khẩu đã ngưng mua thép bởi vì họ muốn quan sát sự ảnh hưởng của quy định nhập khẩu mới có liên quan đến việc kiểm tra tại cảng áp dụng cho tất cả các mặt hàng thép và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/6 tới. Còn các nhà nhập khẩu ở Philippines muốn mua với giá 500 USD/tấn CFR.
Chào giá cuộn trơn đường kính 5.5mm phổ biến tầm 523-525 USD/tấn CFR Thái Lan nhưng người mua cũng rất dửng dưng với mức giá chào bán này trong bối cảnh bất ổn chính trị.
Trong khi đó, giá thép cây tại thị trường Thái Lan vẫn còn trì trệ vì những bất ổn cứ tiếp diễn trong bối cảnh bế tắc chính trị chưa được giải quyết ở trong nước. Thép cây đường kính từ 16mm trở lên đang phổ biến quanh mức 19.700 Bath/tấn (609 USD/tấn) khối lượng lý thuyết và gồm phí vận chuyển, không đổi so với đầu tháng 04.
Ấn Độ
Các nhà sản xuất HRC tại Ấn Độ đã không thay đổi giá cơ bản bán trong nước cho tháng này vì tiêu thụ trong nước trì trệ do bị ảnh hưởng bởi tình hình chính trị bất ổn cộng thêm với thép nhập khẩu giá rẻ.Giá giao dịch trong nước ở tuần này cho HRC IS 2062 loại A/B dày từ 3mm trở lên dao động trung bình từ 35.000-36.000 Rupee/tấn (583-599 USD/tấn) xuất xưởng, không đổi so với tuần trước. Mức giá này tương đương với giá nhập khẩu 542-557 USD/tấn CFR Mumbai gồm thuế nhập khẩu 7,5%.
Các chào giá cho HRC loại tiêu chuẩn hàng hóa SS400B xuất xứ Trung Quốc dày từ 3mm trở lên hiện nay là 540-550 USD/tấn CFR Mumbai
Đài Loan
Feng Hsin Iron & Steel đã giảm giá thép cây trong nước xuống 200 Đài tệ/tấn (6,6 USD/tấn) trong bối cảnh giá phế suy yếu hơn. Sau khi điều chỉnh, thép cây đường kính chuẩn 13mm của Feng Hsin còn 17.600 Đài tệ/tấn (583 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung.
Trong khi đó, nhà máy Tang Eng Iron Works của Đài Loan đã tăng giá bán tháng 05 ở trong nước cho HRC và CRC không gỉ loại 300-series thêm 6.500 Đài tệ/tấn (215 USD/tấn) do chi phí sản xuất cao hơn khi niken và phế đều lên giá. Theo đó, giá niêm yết giao trong nước cho HRC 304 2mm và CRC 2mm 2B của Tang Eng lần lượt là 85.500 Đài tệ/tấn (2.831 USD/tấn) và 89.500 Đài tệ/tấn. Tang Eng không tiết lộ giá xuất khẩu.