Ấn Độ
Nhu cầu HRC trầm lắng từ người mua trong nước đã không thể làm giảm sự quyết tâm của các doanh nghiệp thép trong nước, họ vẫn tiếp tục đối phó lại sức ép của mình và duy trì giá xuất xưởng hiện nay. Vì họ tự tin rằng người mua có thể sẽ không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải mua thép trong nước do tất cả hoạt động đặt hàng nhập khẩu đã ngưng lại kể từ khi chính phủ áp dụng giá nhập khẩu tối thiểu (MIP) từ tháng 2.
Platts định giá HRC IS 2062 loại A/B dày 3mm hôm thứ Tư không đổi so với tuần trước và giữ ở mức 29.500-30.500 Rupees/tấn (441-456 USD/tấn) xuất xưởng.
Đài Loan
Feng Hsin Iron & Steel đã giảm giá thép cây trong tuần thứ hai liên tiếp, và lần này điều chỉnh giảm 800 Đài tệ/tấn (24,5 USD/tấn) do tình trạng doanh số bán ra chậm lại khi người mua tránh né thị trường và chờ giá có khả năng giảm thêm nữa.
Sau thông báo này, giá thép cây trong tuần này của Feng Hsin còn 13.800 Đài tệ/tấn xuất xưởng Taichung. Đây là lần giảm thứ ba liên tiếp, hai lần trước là vào ngày 10/5 và 14/5 với mỗi lần giảm 500 Đài tệ/tấn. Ngoài ra động thái này còn đến từ nguyên nhân giá phế suy yếu trong thời gian qua. Công ty bây giờ đang mua phế HMS 80:20 với giá 6.300 Đài tệ/tấn.
Nhật Bản
Tokyo Steel Manufacturing sẽ tăng giá niêm yết trong nước cho thép cây lên 3.000 Yên/tấn (28 USD/tấn) trong tháng 6, như vậy 2 tháng qua nhà máy đã nâng giá lên tổng cộng 10.000 Yên/tấn. Quyết định của Tokyo Steel đã gây ra phản ứng thị trường bởi vì thép cây chiếm một phần nhỏ trong tổng khối lượng sản phẩm của Tokyo Steel. Công ty vẫn giữ giá của tất cả các sản phẩm khác không đổi cho tháng 6.
Theo đó, giá thép cây 13-25mm của Tokyo Steel lên 54.000 Yên/tấn (495 USD/tấn). Thế nhưng giá thép dầm hình H SS400 cỡ lớn và HRC SPHC 1.7-22mm vẫn duy trì lần lượt ở mức 72.000 Yên/tấn và 53.000 Yên/tấn.
Trong khi đó, Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) đã quyết định sẽ tăng giá trong nước cho thép dầm hình H lên 5.000 Yên/tấn (46 USD/tấn) đối với những hợp đồng tháng 5 (sản xuất tháng 6). Đây là lần tăng giá đầu tiên của nhà máy kể từ tháng 01/2014 khi công ty tăng thêm 2.000 Yên/tấn. Do tình hình thị trường đang cải thiện và nhu cầu thép dầm hình H được cho là sẽ tăng từ quý tới nên đây được cho là động thái đón đầu xu hướng. Thậm chí NSSMC đang cân nhắc tới việc thông báo mức tăng còn lớn hơn cho giá thép dầm trong tháng tới. Trong khi đối thủ cạnh tranh- Tokyo Steel Manufacturing- cũng đã tăng giá niêm yết cho thép dầm hình H cỡ lớn lên 5.000 Yên/tấn cho những hợp đồng tháng 5 lên 72.000 Yên/tấn.
NSSMC không tiết lộ giá niêm yết của mình nhưng giá trên thị trường hiện nay cho thép dầm hình H SS400 cỡ lớn ở Tokyo là khoảng 70.000-71.000 Yên/tấn (642-651 USD/tấn), không đổi so với 1 tháng trước.
Ngoài ra, NSSMC còn quyết định sẽ tăng giá trong nước cho các sản phẩm tấm mỏng, trong đó có HRC, pickled và oiled. CRC và thép mạ để giao ngay, và cho các doanh nghiệp cấp II trong đó có các nhà sản xuất ống thép, lên trung bình 10.000 Yên/tấn (92 USD/tấn) tức khoảng 20% từ những lô hàng giao tháng 6.
Mỹ
Tuần này HRC duy trì ổn định mức 600-620usd/tấn ngắn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Phạm vi giá cho thép mạ đã mở rộng ra gần đây với giá từ 800usd/tấn ngắn đến 850usd/tấn ngắn, tùy thuộc vào thời gian giao hàng và loại sản phẩm. Giá HDG ở mức 840usd/tấn ngắn và cung cũng đang thắt chặt lại.
Thép cuộn cán nguội sẵn có tại Mỹ thắt chặt hơn do các lựa chọn hàng giao ngay nội địa rất khan hiếm cũng như chào giá nhập khẩu rải rác. Vì vậy các nhà máy của Mỹ sẽ không bán CRC dưới ngưỡng 860-880usd/tấn ngắn cho đơn hàng giao ngay. Định giá CRC hàng ngày lên đến 810-820usd/tấn ngắn, tăng từ 800-820usd/tấn ngắn, xuất xưởng Midwest (Indiana).. Báo giá CRC đã nghe nói ở mức 840usd/tấn ngắn và cao hơn ở một số nơi nhưng không rõ giá giao dịch có diễn ra tại mức giá đó hay không.
Trong khi đó các nhà sản xuất thép của Mỹ đang từ chối giá chào bán phế giữa tháng 05 cho nguồn cung bổ sung tại mức giá hợp đồng tháng 05, trong khi ít nhất hai trường hợp nhà máy đang tìm kiếm tấn bổ nguồn cung phế vụn bổ sung có khả năng sẽ mua ở mức giá không chênh lệch tăng so với giá chốt trong tuần mua phế tháng 05 từ đầu tháng này cho thấy áp lực lên nguồn cung phế sẽ diễn ra trong tháng 06.
Platts định giá phế vụn Midwest ở 275-280usd/tấn dài đã giao Midwest thứ Năm, giảm 5usd/tấn dài trong ngày dựa trên giá thầu lặp lại hiện nay và chào giá trên thị trường.
Giá bán xuất khẩu phế container Mỹ đã giảm còn 210usd/tấn CFR Đài Loan, giảm 87usd/tấn trong suốt ba tuần qua. Platts định giá phế HMS container Bờ Tây Mỹ ở mức 180-190usd/tấn FAS Cảng Los Angeles hôm thứ Tư, giảm 27,50usd/tấn trong ngày và giảm 100usd/tấn trong ba tuần qua.
Giá thép tấm Mỹ tăng sau các thông báo của nhà máy cuối tuần trước. Tuy nhiên, các nguồn tin thị trường tiếp tục từ hỏi khả năng duy trì giá cao hơn được thúc đẩy bởi vấn đền nguồn cung này liệu có duy trì kéo dài hay không.
Với 680-700usd/tấn ngắn đã giao là mức giá “thực tế” hơn nhưng có thể vẫn còn một số giao dịch có giá thấp hơn khoảng 670usd/tấn ngắn. Platts nâng định giá ngày của tấm thương mại A36 lên mức 650-670usd/tấn ngắn, tăng từ 630-650usd/tấn ngắn, xuất xưởng đông nam nhà máy Mỹ.
Tại thị trường thép cây Nucor thông báo tăng giá giao dịch cho thép cây có độ dài 20-foot thêm 20usd/tấn ngắn, có hiệu lực hôm thứ Hai. Sau đó Steel Dynamics Inc. cũng đã tăng giá giao dịch của nhà máy cho thép cây có độ dài 20-foot thêm 20usd/tấn ngắn, tương tự như thông báo tăng giá của Nucor.
EU
Giá thép hình châu Âu tuần này duy trì ổn định do người mua chủ yếu đang trong vị thế chờ đợi do giá phế đang được điều chỉnh. Giá ở các khu vực thuộc châu Âu được cho biết tương tự nhau và bằng mức giá tuần trước, với các nhà máy vẫn muốn đạt được mức giá 560euro/tấn vào cuối tháng 06 đối với thép hình loại 1. Giá giao dịch thép hình loại 1 ở tây bắc châu Âu trong phạm vi 510-520euro/tấn đã giao và 520-540euro/tấn đã giao tại Italy.
Chào giá cho tấm dày vẫn khan hiếm trong suốt tuần này trong bối cảnh các nhà máy tiếp tục nhận đơn hàng cho quý 3, trong khi vẫn thúc đẩy giá cao hơn, nguồn tin thị trường cho biết.
Các nhà máy ở Tây Bắc Âu chào giá từ 550-600euro/tấn hoặc thậm chí cao hơn cho thép tấm thương mại S235 trong tuần này. Sau những biến động thị trường, Platts tăng định giá ngày cho S235 (15-40mm) lên mức 520-530euro/tấn xuất xưởng Ruhr, tăng 10euro/tấn. Định giá nhập khẩu hàng ngày vẫn ổn định ở 450-460euro/tấn CIF Antwerp.
Định giá HRC Bắc Âu tuần này tăng 5-10euro/tấn lên mức 430-440euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Chào giá từ một nhà máy ở Đông Âu được nghe nói ở mức 430euro/tấn nhưng giá này là cho thép chất lượng thấp hơn. Thị trường ngày một quan ngại với chào giá nhà máy tăng liên tục ở mức 450-460euro/tấn xuất xưởng. Hầu hết mọi người cho biết thị trường trầm lắng nhưng thời gian giao hàng đang được nhà máy kéo dài hơn và trong khi chào giá nhập khẩu của Trung Quốc được biết ở mức 500euro/tấn CIF Antwerp không cạnh tranh được trong thị trường.
Sau ba tháng tăng giá cao bất thường, thị trường phế châu Âu tuần này dường như đã đạt đến một bước chuyển đảo ngược chiều giá.
Vào đầu tháng, giá chốt mua của tháng 05 đã tăng mạnh thêm 65-70euro/tấn so với giá tháng 04, nhưng tuần này chốt giá mua bán mới nhất đã giảm 30-35euro. Ở miền Nam châu Âu tuần trước giá đã giảm 10-15euro/tấn. Platts định giá chốt phế vụn NW châu Âu nội địa ở mức 250-270euro/tấn đã giao.
Thổ Nhĩ Kỳ
Tại thị trường thép tấm mỏng mặc dù các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn đang cố gắng giữ giá niêm yết trong nước ổn định và chỉ cung cấp mức giảm giá nhẹ cho đơn đặt hàng khá lớn bất chấp kỳ vọng điều chỉnh giá giảm đáng kể của người mua, tuy nhiên chào giá phổ biến của nhà tích trữ cho thị trường trong nước đã suy yếu do hoạt động thu mua ít ỏi.
Chào giá HRC của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho thị trường trong nước vẫn ở mức 570-590usd/tấn xuất xưởng, trong khi giá của nhà tích trữ giảm khoảng 15-20usd/tấn còn 560-570usd/tấn do sức mua yếu.
Kéo theo đó kết hợp cùng với nhu cầu tiêu thụ ở mức thấp đã tiếp tục gây áp lực lên giá chào của các nhà sản xuất thép cuộn mạ của Thổ Nhĩ Kỳ với mức giảm giá đáng kể cho khách hàng để thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ trong tuần.
Chào giá của các nhà sản xuất thép cuộn mạ hàng đầu cho HDG dày 0.5mm đến thị trường trong nước giảm xuống còn 720-740usd/tấn xuất xưởng với mức chiết khấu, trong khi chào giá trong nước PPGI 9002 dày 0.5mm ở mức 820 -840usd/tấn xuất xưởng, tùy thuộc vào điều khoản thanh toán và khối lượng đặt hàng, giảm khoảng 20usd/tấn trong tuần.
Chào giá xuất khẩu thép cuộn mạ của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm một khoản tương ứng và hiện ở mức thấp hơn khoảng 20-30usd/tấn thấp so với giá niêm yết trong nước, do nhu cầu xuất khẩu chậm chạp.
Đối với thị trường thép cây trong nước tuần này Icdas, một trong những nhà sản xuất thép dài lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, đã giảm mạnh giá niêm yết trong nước cho thép cây và cuộn trơn hôm thứ Hai, đi theo xu hướng giảm của giá bán phổ biến của thép cây tại thị trường trong nước trong những ngày gần đây và trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ thấp và giá nguyên liệu thô giảm, đặc biệt là chào giá phôi thanh nhập khẩu.
Thép cây đường kính 12-32mm giảm 100TRY(34usd)/tấn còn 1.680TRY/tấn xuất xưởng cho Istanbul và 1.660TRY/tấn xuất xưởng cho Biga, Canakkale - tương đương với mức 480usd/tấn và 473usd/tấn tương ứng – không bao gồm VAT 18%. Thép cây đường kính 10mm giảm còn 1.690TRY(484usd)/tấn xuất xưởng, trong khi thép cây đường kính 8mm hiện ở mức 1.700TRY(487usd)/tấn xuất xưởng cho Istanbul.
Icdas cũng giảm giá thép cuộn trơn đường kính 7-8.5mm một khoảng tương tự còn 1.740-1.770TRY/tấn xuất xưởng, bao gồm VAT 18%.
Giá bán phổ biến thép cây đường kính 8-12mm của nhà tích trữ trong khu vực Marmara giảm còn 1.630-1.650TRY/tấn xuất xưởng (bao gồm VAT 18%), giảm 100TRY(34usd)/tấn trong tuần, trong khi giá tại các khu vực phía nam của Thổ Nhĩ Kỳ còn thấp hơn nhiều.
Xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ trì trệ trong tuần này do các nhà xuất khẩu địa phương đã từ chối cắt giảm giá đáng kể theo sự mong đợi của người mua.
Chào giá, mặc dù khan hiếm, được cho biết trong khoảng 470-480usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ, trọng lượng thực tế, giao cuối tháng 06. Người mua ở UAE có thể trả 450-460usd/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, một nguồn tin thương mại cho biết. Tại Mỹ, người này cho rằng, "người mua đang tìm kiếm 470usd/tấn CFR trọng lượng lý thuyết và tôi nghĩ rằng giá sẽ ổn định ở 470-475usd/tấn CFR". Platts đưa định giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ hàng ngày ở mức 470usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ, giảm 10usd/tấn.
Giá mua phế DKP và phế nấu chảy từ tàu cũ của các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm mạnh hơn nữa trong tuần này, do các nhà máy tiếp tục giảm giá mua phế trong nước trong bối cảnh niềm tin thị trường thép thành phẩm trì trệ ở cả thị trường trong nước và xuất khẩu.
Phế nóng chảy từ tàu cũ bắt đầu được chào giá đến các nhà máy ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Ege Celik, IDC, Habas, Ozkan) trong phạm vi rộng là 210-245usd/tấn hôm thứ Tư, giảm khoảng 15-30/tấn trong tuần. Nhà máy Iskenderun của tập đoàn Erdemir ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, đã cắt giảm giá mua mạnh mẽ đối với phế DKP thêm 80TRY (27usd)/tấn còn 620TRY(208usd)/tấn, trong khi nhà máy Eregli cũng của tập đoàn này ở phía bắc Thổ Nhĩ Kỳ cũng hạ giá mua đáng kể thêm 95TRY (32usd)/tấn còn 645usd (216usd)/tấn.
Nhà sản xuất thép EAF Colakoglu, và nhà sản xuất thép hợp kim Asil Celik cũng đều giảm giá mua đáng kể thêm 15-30TRY (10-27usd) /tấn, còn 700TRY (235usd)/tấn trong tuần này. Giá mua DKP trong nước tại những nhà sản xuất thép lò hồ quang điện khác ở Thổ Nhĩ Kỳ trong phạm vi là 660-700TRY (221-235usd)/tấn hôm thứ Tư, tùy thuộc vào khu vực và yêu cầu của nhà máy.
CIS
Tuần này không có doanh số bán thép cuộn xuất khẩu CIS được thực hiện. CIS đangduy trì chào giá ở mức 470usd/tấn FOB Biển Đen, nhưng chỉ về mặt tâm lý. Platts giảm định giá ngày của HRC nguồn gốc CIS còn 455-460usd/tấn FOB Biển Đen, giảm 7,5usd/tấn trong ngày, với định giá CRC cũng giảm 7,5usd/tấn, còn 515-520usd/tấn.
Các nhà máy CIS đã may mắn bán được sản lượng tháng 06 trước khi giá HRC đảo ngược chiều tại Trung Quốc trong tuần cuối cùng của tháng tư. Mặc dù giá thép cuộn và phôi tấm CIS đang chứng minh khả năng chống lại được trước sự sụt giảm của phôi thanh và thép dài từ đầu tháng 05, tuy nhiên niềm tin thị trường cho thép cuộn cũng bị tác động không ít.
Phôi thanh Biển Đen tiếp tục điều chỉnh giảm trong tuần này để phù hợp với mức giá thấp hơn nhiều từ Trung Quốc cũng như tình cảnh thị trường thép thành phẩm Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục suy yếu. Mặc dù giá đã suy yếu hơn nhưng phôi thanh CIS vẫn còn quá cao đối với người mua, những người đang chờ đợi để đặt các đơn hàng mới.
Chào giá xuất khẩu CIS trong khoảng 360-365usd/tấn FOB Biển Đen cho hàng giao tháng 07 và 360usd/tấn FOB là mức giá “hợp lý”. Cũng trong tuần này có hai nhà máy tại Nga và Ukraine đang ở trong thị trường với mức giá đang tìm kiếm là 365usd/tấn FOB Biển Đen, các nguồn tin thương mại cho biết. Platts định giá phôi thanh hàng ngày của mình ở mức 360usd/tấn FOB Biển Đen hôm thứ Năm, giảm 5usd/tấn trong ngày.