Mỹ
Trước áp lực hàng nhập khẩu giá thấp, sự cạnh tranh gay gắt trong nội bộ cũng như giá phế suy yếu đã gây áp lực cho thị trường thép cuộn và thép cây Mỹ.
Gía thép cây Đông Nam Mỹ đạt mức 560 USD/tấn xuất xưởng nhưng một khách hàng đã đàm phán giá thành công với 3 nhà máy còn 545-565 USD/tấn xuất xưởng từ giá 560-575 US/tấn tháng trước.
Các vụ kiện chống bán phá giá cho thép cuộn cán nguội và thép mạ nhập khẩu và vụ kiện HRC dự báo xảy đến vào tuần tới vẫn chưa đem lại tác dụng gì cho thép cuộn Mỹ. Gía HRC vẫn có sẵn ở mức 460 USD/tấn xuất xưởng cho các khách hàng nhỏ mặc dù các khách hàng lớn có thể mua được giá 450 USD/tấn. Trong khi đó, mặc dù các nhà máy US Steel và ArcelorMittal đã ngưng sản xuất tạm thời ở vài xưởng do đàm phán lao động thì giá thép tiếp tục suy yếu do người mua chỉ mua đủ dùng.
Trong khi đó, nhập khẩu thép cắt dọc vào Mỹ trong tháng 7 cao hơn dự báo hồi tháng 6 đang làm nghiêm trọng nguồn cung quá mức trên thị trường. Nhập khẩu tấm cắt trong tháng 6 và 7 là 97.727 tấn và 105.936 tấn. Gía chào nhập khẩu đạt mức 470 USD/tấn CIF Houston. Hàng nhập khẩu đang được tái bán tại mức thấp 500 USD/tấn đã tính phí giao hàng.
Thị trường thép dầm Mỹ vẫn cân bằng. Gía thép dầm bản rộng đạt mức 675-685 USD/tấn xuất xưởng trong tháng 8.
CIS
Tâm lý thị trường CIS đã cải thiện phần nào trong tuần này nhờ khách hàng đã quay trở lại sau khi Trung Quốc tăng giá phôi thanh xuất khẩu . Một nhà máy Ukraina tăng giá chào phôi thanh tháng 9 lên mức 325-330 USD/tấn FOB Biển Đen từ giá chốt 318-320 USD/tấn cuối tháng 7. BMZ tăng mục tiêu giá lên mức 325 USD/tấn FOB Odessa nhưng không có đơn hàng.
Thổ Nhĩ Kỳ
Gía thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng 20 TRY/tấn (7 USD/tấn) tuần này dựa vào sự suy yếu của đồng Lira và giá phế nhập khẩu đang tăng dần. Giá thép cây 8-12mm tại Marmara đạt mức 1.350-1.370 TRY/tấn xuất xưởng (đã tính VAT 18%), trong khi giá tại Iskenderun Nam Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức 1.280-1.300 TRY/tấn.
Tuy nhiên, giá xuất khẩu giảm do giao dịch chậm chạp trong khi tâm lý thị trường suy yếu mặc dù có đơn hàng. Nhiều đơn hàng vào Dubai đạt mức 402-404 USD/tấn CFR trọng lượng (399-401 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, dựa trên chênh lệch 4.3% và phí vận cuyển 20 USD/tấn) cho đơn hàng tổng khối lượng 25.000 tấn.
Khối lượng xuất khẩu thép dây Thổ Nhĩ Kỳ trong tháng 6 đã giảm mạnh 22.5% so với tháng trước còn 55.375 tấn, do tiêu thụ suy yếu tại MENA trong suốt lễ ăn chay Ramadan. Trong khi đó, giá chào xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm thêm 15 USD/tấn kể từ tuần qua còn 415-430 USD/tấn FOB kèm chiết khấu trong bối cảnh tiêu thụ trì trệ mặc dù giá phế nhập khẩu có dấu hiệu tăng mạnh.
Gía chào từ CIS vẫn ở mức 335-345 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ kể từ cuối tuần qua nhưng giá dự thầu từ Thổ Nhĩ Kỳ vẫn thấp hơn ít nhất 10 USD/tấn.
Nhu cầu tiêu thụ thấp và sự cạnh tranh gay gắt tại thị trường thép mạ xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đã kéo giá HDG và PPGI xuống còn 580 USD/tấn từ mức 690 USD/tấn.
Gía chào nội địa cũng giảm 5-10 USD/tấn kèm chiết khấu trong tuần này trong bối cảnh tỷ giá dao động, bất ổn chính trị và kinh tế gia tăng cộng với tiêu thụ suy yếu. Xu hướng giảm của giá HRC cũng là nguyên nhân kéo giá thép mạ.
Gía niêm yết HDG 0.5mm dao động trong khoảng 610-640 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào xuất khẩu HDG 0.5mm đạt mức thấp 580-610 USD/tấn FOB kèm chiết khấu, cùng giảm 10 USD/tấn so với tuần trước.
Gía chào xuất khẩu cho PPGI 9002 0.5mm cũng giảm cùng mức xuống còn 690-720 USD/tấn FOB kèm chiết khấu trong tuần này trong bối cảnh tiêu thụ thấp và đồng dolla tăng trong khi giá chào nội địa đạt mức 710-740 USD/tấn xuất xưởng.
Tâm lý thị trường toàn cầu suy yếu trong bối cảnh thiếu hụt tiền mặt cộng với áp lực giá chào nhập khẩu thấp buộc các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cắt giảm giá HRC xuống 15-20 USD/tấn đầu tuần này còn 390-410 USD/tấn xuất xưởng. Trong khi đó, giá chào xuất khẩu HRC cũng giảm còn 370-390 USD/tấn FOB tuần này kèm chiết khấu cho các đơn hàng lớn trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ CIS và Trung Quốc.
Châu Âu
Với ngày càng nhiều cơ sở sản xuất đóng cửa tạm thời trong mùa hè, thị trường vẫn trầm lắng tại Bắc Âu với rất ít giao dịch diễn ra.
Gía chào bán thép tấm thương phẩm vẫn ở mức 380 Euro/tấn trong khi giá chào nhập khẩu từ Trung Quốc và Nga đạt mức 345-350 Euro/tấn CIF Antwerp mặc dù không thu hút được người mua.
Thị trường thép cây Tây Bắc Âu đã suy yếu mạnh trong nửa tháng qua do đang trong mùa tiêu thụ thấp điểm trong khi người mua chờ đợi giá chốt phế tháng 8 trước khi quyết định mua hàng khối lượng lớn. Do đó, giá thép gặp áp lực. Gía giao dịch tại Đức vẫn ở mức 430-440 Euro/tấn đã tính phí giao hàng trong khi giá tại Pháp và các nước Benelux đã giảm còn 420-430 Euro/tấn đã tính phí giao hàng từ mức 430 Euro/tấn.
Giá thép xây dựng ở Osaka, miền tây Nhật Bản đã bắt đầu giảm sau khi phế rớt giá. Giá thị trường hiện nay của thép dầm hình H cỡ lớn SS400 ở Osaka là 73.000-74.000 Yên/tấn (585-593 USD/tấn) trong khi thép cây SD295 đường kính 16-25mm có giá 52.000-53.000 Yên/tấn, cả hai đều thấp hơn 1.000 Yên/tấn (8 USD/tấn) so với tuần trước.
Châu Á
HRC: Gía HRC giao ngay vào Châu Á vẫn duy trì ổn định trong bối cảnh giao dịch gia tăng từ những khách hàng ngành gỗ. Đối với thép cuộn SAE1006 2.0mm, Benxi Iron & Steel và Maanshan Iron & Steel đã nâng chào giá thêm 5 USD/tấn lên lần lượt 335 USD/tấn và 330 USD/tấn CFR Việt Nam. Thép cuộn từ Hyundai Steel được chào giá 360 USD/tấn CFR Đài Loan, không đổi so với tuần trước, nhưng giá mua là 340 USD/tấn.
Giá thép cây giao ngay nhập vào thị trường Châu Á đã phục hồi trong tuần này do một số nhà xuất khẩu Trung Quốc đã tăng chào giá lên thêm cùng với đà tăng của giá trong nước. Chào giá cho thép của Trung Quốc tới Singapore đã tăng thêm khoảng 10 USD/tấn lên 310-315 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, sau khi tăng ở mức giống như vậy hồi tuần trước. Mức giá này tương đương 303-308 USD/tấn FOB USD/tấn trọng lượng thực tế, sau khi trừ đi phí vận chuyển 16 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Một số chào giá thậm chí đã được tăng lên 320-330 USD/tấn CFR, do giá phôi thanh Trung Quốc tiếp tục đà leo dốc hôm thứ Năm.
Tương tự, giá cuộn trơn giao ngay tới Châu Á lần đầu tiên phục hồi trong tuần này kể từ khi giá bắt đầu giảm hồi giữa tháng 5. Nguyên nhân là nhờ giá ở thị trường Trung Quốc tăng trong 2-3 tuần qua. Các nhà máy xuất khẩu khác đang chào giá 315 USD/tấn FOB, tăng 5 USD/tấn so với tuần trước.
Ấn Độ
Giá HRC tại thị trường Ấn Độ tiếp tục giảm trong tuần này để cạnh tranh với thép nhập khẩu giá rẻ. Các nhà máy đã giảm giá HRC xuống tổng cộng 1.000-1.500 Rupees/tấn (16-24 USD/tấn) trong tháng vừa qua. HRC IS 2062 loại A/B dày 3mm trong tuần này là 27.500-28.500 Rupees/tấn (431-447 USD/tấn) xuất xưởng hôm thứ Tư.
Chào giá tuần này cho HRC SS400 loại thương phẩm dày từ 3mm trở lên tăng 5-10 USD/tấn so với tuần trước chốt tại 320-330 USD/tấn CFR. Mức giá này tương đương với giá nhập khẩu 352-363 USD/tấn (22.459-23.168 Rupees/tấn) gồm thuế nhập khẩu 10%. Tuy nhiên, không có đơn hàng nào được đặt trong tuần này. Các nhà nhập khẩu phải chịu thêm chi phí 1.000 Rupees/tấn để thông cảng và phí vận chuyển trong nước.
Chào giá cho HRC loại 1.2-2mm loại cán lại từ Nhật Bản và Hàn Quốc duy trì không đổi từ tuần trước ở quanh mức 365-375 USD/tấn CFR. HRC của hai nước này bị đánh thuế thấp hơn 1%.
Hàn Quốc
Nhu cầu thép cây từ thị trường xây dựng Hàn Quốc tiếp tục gia tăng đã dẫn đến giá thép cây tăng 20.000-30.000 Won/tấn (17-26 USD/tấn) trong tháng qua. Giá giao ngay của thép cây SD 400 đường kính 10mm được sản xuất trong nước đã tăng lên 620.000-630.000 Won/tấn (530-539 USD/tấn).