Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 31/2016

Nhật Bản

NSSC sẽ tăng thêm 5.000 Yên/tấn (49,5 USD/tấn) cho giá niêm yết trong nước đối với những hợp đồng CRC và thép tấm austenite tháng 8, nhưng sẽ duy trì giá cho CRC ferrite.

NSSC không bao giờ công bố giá niêm yết của mình nhưng giá thị trường hiện nay cho CRS loại 304 dày 2mm ở Tokyo vào hoảng 300.000 Yên/tấn (2.970 USD/tấn) và CRS  430 là 240.000 Yên/tấn (2.376 USD/tấn). Giá thị trường cho thép tấm loại 304 ở Tokyo là khoảng 510.000 Yên/tấn (5.050 USD/tấn), tất cả đều không đổi từ một tháng trước.

Ấn Độ

Giá HRC tại Ấn Độ vẫn ổn định trong tuần này với không có sự thay đổi nào trong nhu cầu. Platts định giá HRC IS 2062 A/B dày 3mm duy trì mức 26.500-27.500 Rupees/tấn (396-411 USD/tấn) xuất xưởng. Hoạt động sản xuất trì trệ cùng với sức tiêu thụ xe hơi và thiết bị suy yếu trong suốt mùa mưa cũng đã góp phần khiến nhu cầu HRC giảm sút.

Đài Loan

Feng Hsin Steel và các nhà sản xuất thép cây khác ở Đài Nam tiếp tục giữ giá thép cây không đổi trong tuần này mặc dù doanh số ế ẩm. Việc ngưng hoạt động để bảo trì theo kế hoạch trong tháng 7 và 8 đã làm giảm bớt áp lực cho các nhà máy để tạo ra doanh thu. Theo đó, thép cây vẫn duy trì ở mức 12.800 Đài tệ/tấn (410 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung. Cũng trong tuần này, nhà máy tiếp tục mua phế với giá 5.900 Đài tệ/tấn cho loại HMS 1&2 (80:20).

Mỹ

Phế cũ đã duy trì ổn định trong hầu hết các giao dịch tại thị trường Đông Nam bất chấp những nỗ lực của nhà máy để đẩy giá xuống. Phế prime giảm 10-20usd/tấn dài trong khu vực.

Các nhà máy ở vùng Trung Tây và Đông Bắc đã chốt mua phế tháng Tám hồi đầu tuần này, duy trì giá phế cũ đi ngang và hạ giá phế prime giảm 10usd/tấn dài.

Platts duy trì định giá phế vụn hàng ngày ở 240-245usd/tấn dài đã giao Trung Tây vào thứ Tư.

Nhu cầu tiêu thụ tấm mỏng của Mỹ đã dưới mức trung bình lịch sử cho thời gian này của năm, và việc nhu cầu chậm chạp tiếp tục gây áp lực lên giá cả.

Platts đã giảm mức cao nhất trong phạm vi định giá HRC hàng ngày 10usd, mang lại phạm vi còn 610-620usd/tấn ngắn từ  610-630usd/tấn ngắn, trong khi định giá CRC vẫn ở mức 820-840usd/tấn ngắn. Cả hai đều được chuẩn hóa theo cơ sở giá xuất xưởng Midwest (Indiana).

Hầu hết thu mua giao ngay HRC dưới 500 tấn ngắn có lẽ trong khoảng 600-610usd/tấn ngắn, các nguồn tin thị trường khác vẫn thấy phần lớn đang được thực hiện ở mức giá cao hơn một chút.

Trung điểm hàng ngày của HRC trong định giá Platts đã giảm còn 615usd/tấn ngắn từ 635usd/tấn ngắn trong bảy tuần qua.

Giá HDG ở Mỹ vẫn duy trì ổn định vào đầu tháng Tám. Platts nâng định giá HDG hàng tháng cho tấm mỏng với một lớp phủ G90 lên đến 890-910usd/tấn ngắn từ 885-905usd/tấn ngắn. HDG, không bao gồm phụ phí khối lượng mạ kẽm, ở mức 830usd/tấn ngắn.

Giá nhập khẩu HDG đến Mỹ đã giảm 20usd/tấn ngắn trong tháng Bảy. Platts hạ định giá nhập khẩu hàng tháng của Mỹ cho HDG còn 630- 650usd /tấn ngắn CFR Houston, từ mức 645-675usd/tấn ngắn trong tháng Bảy. Trung điểm của định giá này đã giảm 110usd/tấn ngắn từ tháng Sáu đến tháng Bảy. Sự sụt giảm từ tháng Bảy đến tháng Tám là 20usd/tấn ngắn.

HDG 16-gauge với lớp phủ G90 là khoảng 700usd/tấn (635usd/tấn ngắn) CFR cập bến tháng Mười Hai hoặc tháng Giêng, một số chào giá từ Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ đều thấp hơn 635usd/tấn ngắn CFR. Báo giá cho tấm mỏng medium-gauge với lớp phủ G90 trong phạm vi 640-700usd/tấn ngắn, vận chuyển bằng xe tải. Đối với tấm mỏng với một lớp phủ G60, chào giá là 695usd/tấn ngắn cập bến tại Chicago vào Q1/2017

Giá thép dầm WF của Mỹ tiếp tục giữ ổn định trong tháng Tám do thị trường vẫn tương đối yên ắng trong suốt mùa hè.

Giá ống tiêu chuẩn đã duy trì ổn định vào đầu tháng Tám, tuy nhiên nhập khẩu tiếp tục có một phần lớn thị phần. Platts duy trì định giá  tháng cho thép ống tiêu chuẩn Mỹ ở mức 960-980usd/tấn ngắn xuất xưởng. Platts cũng duy trì định giá hàng tháng của OCTG J55 nội địa Mỹ ở mức 770-800usd/tấn ngắn xuất xưởng.

EU

Platts định giá HRC Bắc Âu không đổi ở mức 410-420euro/tấn xuất xưởng Ruhr trong tuần này.

Chào giá của nhà máy Bắc Âu ổn định ở mức 410-420euro/tấn. Nhập khẩu không thay đổi ở mức khoảng 400euro/tấn giao đến Bắc Âu. Định giá của Platts đã không đổi ở mức 400-405euro/tấn CIF Antwerp.

Thị trường phế châu Âu đã bắt đầu cho thấy dấu hiệu có thể cải thiện hơn - một thay đổi so với những dự đoán thông thường theo mùa.

Các hợp đồng Italia đã tăng 5-10euro/tấn, trong khi các nhà máy của Đức đã duy trì giá ổn định. Xu hướng ở khắp châu Âu là tăng nhẹ 5-10 euro.

Một nhà máy ở phía bắc châu Âu đang nói về một mức giá tăng “nhẹ”, trong khi một nhà máy tích hợp của Đức ban đầu duy trì giá nhưng bây giờ đã tăng lên 5-10euro/tấn.

Thổ Nhĩ Kỳ

Thị trường tấm mỏng tại Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục yên ắng kể từ cuộc đảo chính quân sự thất bại vào ngày 15/07 – do người mua có xu hướng đặt nhiều lô hàng phù hợp với nhu cầu của mình.

Giá chào cho HDG dày 0.5mm vẫn ở mức 550-580usd/tấn xuất xưởng, tùy thuộc vào điều khoản thanh toán và khối lượng, trong khi chào giá xuất khẩu của  các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ở mức tương tự, nguồn tin cho biết. Chào giá trong nước của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho PPGI 9002 dày dày 0.5mm cũng ổn định tuần này tại 650-680usd/xuất xưởng.

Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ của thị trường HRC và CRC trong nước vẫn chậm chạp và giá đi ngang trong biên độ hẹp hơn là 410-420usd/tấn và 500-510usd/tấn tương ứng.

Việc tăng giá thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ nhìn thấy trong hai tuần trước đã tạm dừng. Chào giá thép cây của một số nhà tích trữ  cho thị trường trong nước đã dịu nhẹ, trong khi các nhà máy trong nước phần lớn đang cố gắng duy trì mức giá của mình trong bối cảnh chi phí đầu vào cao hơn trong những tuần gần đây.

Giá bán của  Icdas ở Marmara và Kardemir ở  Karabuk cho thép cây đường kính 12-32mm ổn định tại mức 1.430 TRY/tấn và 1.380 TRY/tấn tương ứng - tương đương với 405usd/tấn và 391usd/tấn - mà không bao gồm 18 % VAT.

Tuy nhiên, giá của một số nhà tích trữ đã giảm nhẹ trong tuần này với mức giảm giá, trong bối cảnh nhu cầu thấp trong thị trường nội địa. Giá bán phổ biến của thép cây đườngHkính 8-12mm ở khu vực Marmara chuyển xuống phạm vi là 1.400-1.420TRY/tấn (bao gồm 18% VAT) thứ hai, trong khi giá bán tại khu vực Karabuk cũng giảm nhẹ xuống còn 1.370-1.390TRY/tấn.

Giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ không đổi trong tuần này. Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ổn định trong ngày tại mức 380-390usd/tấn FOB thứ Năm, với một mức trung điểm là 385usd/tấn. Chào giá cao nhất đến 400usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ, giao dịch đến Qatar và UAE ở mức 385usd/tấn CFR sau đó chào giá tăng lên đến 390usd/tấn CFR và không có giao dịch mới nào.

Nhà sản xuất thép dài tích hợp lớn của Thổ Nhĩ Kỳ, Kardemir, đã chốt doanh số bán phôi thanh cho thị trường trong nước, sau khi đã nhận được đơn hàng hơn 120.000 tấn

Giá bán mới thứ Năm tuần trước của Kardemir cho phôi thanh tiêu chuẩn tại mức 340-345usd/tấn xuất xưởng, thấp hơn so với giá niêm yết trước đó 20usd/tấn. Giá phôi thanh của những nhà máy địa phương khác ở thị trường trong nước nói chung đang đứng ở mức 345-360usd/tấn xuất xưởng, trong khi chào giá phôi thanh CIS mới nhất cho Thổ Nhĩ Kỳ đã quanh mức 330-335usd/tấn CFR tuần này, tùy thuộc vào cảng nhập khẩu. Các nhà cung cấp phôi thanh Trung Quốc chào bán ở mức thấp hơn khoảng 10usd/tấn.

Giá mua bằng USD của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho phế shipbreaking đã tăng nhẹ 5usd/tấn vào thứ Ba domức giá mua tăng lên của Ozkan. Giá mua của các nhà máy thép khác cho phế shipbreaking ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Habas, IDC, Cebitas, Ege Celik), tuy nhiên, vẫn ổ định ở 220usd/tấn kể từ giữa tháng Bảy.

Giá mua bằng lira của các nhà máy cho phế DKP trong nước vẫn duy trì ổn định trong những tuần gần đây. Tuy nhiên, nhà máy thép tích hợp lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, nhà máy Iskenderun của tập đoàn Erdemir ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, đã tăng giá mua đối với phế DKP thêm 70TRY (23usd)/tấn lên mức 690 TRY (230usd)/tấn, hôm 02/08.

Giá mua phế trong nước của các nhà máy thép EAF hàng đầu Thổ Nhĩ Kỳ không thay đổi trong khoảng 590-635TRY (597-212usd)/tấn, tùy thuộc vào khu vực và các yêu cầu của nhà máy.

CIS

Phôi thanh xuất khẩu của CIS đã ổn định hơn trong  tuần này do các nhà sản xuất đang cố gắng tận dụng lợi thế của giá chốt phế mạnh hơn ở Thổ Nhĩ Kỳ và chào giá liên tục không cạnh tranh của phôi thanh Trung Quốc. Những tín hiệu tích cực này, tuy nhiên, rất hạn chế do thiếu sự hỗ trợ từ giá thép cây, đặc biệt đối với hàng xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ.

Với định giá Platts chỉ tăng nhẹ lên 320usd/tấn FOB Biển Đen, thị trường phôi thanh Biển Đen đã bước vào một tháng thứ ba liên tiếp có giá tương đối ổn định, với phôi thanh  sẽ không vượt ra ngoài phạm vi là 305-322,50usd/tấn FOB kể từ đầu tháng Sáu .