Mỹ
Gía phế vụn Mỹ tiếp tục giảm trong tháng 9 đang tăng sức ép cho thị trường thép nội địa khi mà nhu cầu tiêu thụ vẫn trì trệ.
Các nhà buôn phế đã chấp nhận giảm giá phế tháng 9 xuống 10 USD/tấn tại Midwest. Nhiều nhà máy tại Northeast có thể mua phế với giá thấp hơn 15 USD/tấn. Một nhà máy tại khu vực này có thể mua phế vụn với giá 215 USD/tấn đã tính phí giao hàng. Giá xuất khẩu phế khối lượng lớn từ Mỹ tới Thổ Nhĩ Kỳ giảm 20 USD/tấn so với cách đó 2 tuần, còn 220 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ.
Trong khi đó, các nhà máy thép dẹt đang cố gắng chào bán cho Q4 và Qúy đầu năm tới nhưng không thu hút. Thị trường không có nhiều điểm sáng và giá trần HRC là 460 USD/tấn nhưng các đơn hàng tại Midwest cận mức 450 USD/tấn xuất xưởng cho các đơn hàng nhỏ hơn. Các đơn hàng lớn có thể đạt mức 440 USD/tấn.
CIS
Các nhà máy phôi phiến CIS lại một lần nữa đối mặt với các giá dự thầu giảm từ sức mua suy yếu trong ối cảnh thị trường thép tấm và cuộn trì trệ.
Giá bán tới Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức 285 USD/tấn CFR (270-272 USD/tấn FOB Biển Đen), nhưng các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ tìm kiếm giá 275 USD/tấn CFR, tương đương 260 USD/tấn nhưng chưa có đơn hàng nào chốt tại giá sàn.
Giá xuất khẩu HRC từ CIS đã giảm còn 305-310 USD/tấn FOB Biển Đen và do đó, giá phôi phiến giảm thêm ít nhất 40 USD/tấn. Các nhà máy đã sẵn sàng chấp nhận 270 USD/tấn FOB và nếu người mua kiên quyết thì giá có thể giảm còn 265 USD/tấn.
Trong khi đó, phôi thanh của CIS đã tiếp tục suy yếu trong tuần này và đa số các thương nhân cho biết có thể mua được nguyên liệu này một cách dễ dàng với giá 305 USD/tấn FOB Biển Đen, mức giá mà vào tuần trước các nhà máy vẫn còn phản đối bán ra.
Tại Nam Phi, người mua đang cố đưa ra mức giá thấp nhưng cho đến nay vẫn bị từ chối. Một người Ai Cập đã đưa ra mức giá 300 USD/tấn FOB với 1 nhà máy Ukraina và nhận được phản hồi tiêu cực. Nhà máy này tuyên bố đã rời khỏi thị trường vì kỳ vọng giá sẽ phục hồi, và không chấp nhận giá mua từ 300-310 USD/tấn FOB.
Một người khác cho biết có một khách hàng ở Libya đang tìm mua 20.000 tấn phôi thanh của CIS với giá 320 USD/tấn CIF nhưng việc có được thư tín dụng là một vấn đề lớn vì rủi ro cao.
Châu Âu
Gía thép thanh chịu lực tại Brescia Bắc Ý đã tăng 5-10 Euro/tấn trong suốt tháng 8. Giá cơ bản thép thanh đạt mức 150-155 Euro/tấn, tăng từ mức 140-150 Euro/tấn ngày 3/8. Gía được áp dụng cho thép thanh đường kính 6-40mm và loại cuộn 6-16mm. Gía cơ bản chưa tính phụ thu là 260-355 Euro/tấn tùy thuộc vào đường kính.
Giá thép dầm và hình cũng không đổi. Gía cơ bản thép IPNs 80-220mm đạt mức 125-135 Euro/tấn, cộng phụ phí vào là 380-400 Euro/tấn.
Trong khi đó giá thép cuộn Bắc Âu giảm nhẹ trong tháng 9. Gía giao dịch thép giao tháng 9 đạt mức 380-390 Euro/tấn cho HRC và 475-480 Euro/tấn cho CRC đã tính phí giao hàng.
Còn tại Trung Âu, giá cũng giảm giá thép xuống trước áp lực từ các nhà máy CIS. Nhà máy Metinvest Ukraina chào bán HRC giao tháng 10 tại mức 330-340 Euro/tấn DAF cảng Ba Lan, giảm 10 Euro/tấn. Các nhà máy Nga chào bán tại mức 340 Euro/tấn DAF cảng Ba Lan. Cách đây 6 tuần, giá HRC Nga đạt mức 360-370 Euro/tấn.
Giá CRC từ CIS bình ổn hơn HRC dựa vào chống bán phá giá thép nhập khẩu từ Nga. Gía chào từ Ukraina và Nga đạt mức 420-430 Euro/tấn DAF, không đổi so với tháng trước. Nhìn chung, giá mới từ CIS được chấp nhận trên thị trường Ba Lan.
Thổ Nhĩ Kỳ
Chào giá nhập khẩu HRC và CRC thấp tới Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục gây sức ép đến chào giá của các nhà máy trong nước, trong bối cảnh các bất ổn chính trị và kinh tế vẫn đang diễn ra. Những biến động mạnh trong tỷ giá hối đoái cũng đang từng ngày làm gia tăng nhiều vấn đề tài chính trên thị trường hơn nữa.
Các nhà máy CIS đã và đang chào bán HRC trong mức giá từ 325-345 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ kể từ cuối tuần trước, trong khi chào giá CRC của họ là 400-420 USD/tấn CFR . Các nhà sản xuất trong nước nhìn chung đang chào bán HRC với giá 360-380 USD/tấn xuất xưởng và CRC là 460-480 USD/tấn.
Nhu cầu tiêu thụ trì trệ cộng với giá HRC rẻ hơn, tỷ giá biến động trong bối cảnh bất ổn chính trị và kinh tế buộc các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ giảm giá HDG và PPGI xuống têm 20 USD/tấn trong tuần này.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ chào bán HDG 0.5mm tới thị trường nội địa tại mức thấp 580-610 USD/tấn xuất xưởng trong khi HDG 0.5mm xuất khẩu hiện đạt mức 560-590 USD/tấn FOB, cùng giảm 20 USD/tấn so với tuần trước.
Giá chào PPGI 9002 0.5mm xuất khẩu cũng giảm cùng mức xuống còn 660-690 USD/tấn FOB trong bối cảnh cạnh trnah gay gắt. Gía chào trong nước cho mặt hàng này là 680-710 USD/tấn xuất xưởng.
Nhật Bản
Giá thép dầm hình H ở Nhật Bản vẫn còn suy yếu, nhất là giá ở Osaka đang bị sức ép.
Thép dầm hình H SS400 cỡ lớn ở Tokyo hiện tại là 75.000-76.000 Yên/tấn (620-628 USD/tấn), không đổi so với tuần trước nhưng lại giảm 2.000 Yên/tấn từ hai tuần trước. Giá ở Osaka khoảng 72.000 Yên/tấn, giảm 1.000 Yên/tấn so với tuần trước và rớt thêm 1.000 Yên/tấn từ hai tuần trước đó.
Đài Loan
Feng Hsin Iron & Steel đã quyết định sẽ duy trì giá thép cây trong nước không đổi ở tuần này, do giá phế ổn định. Ở bất cứ trường hợp nào, việc giảm giá thép của nhà máy cũng không thể đẩy mạnh doanh số bán ra do thị trường suy yếu.
Giá niêm yết trong nước của Feng Hsin cho thép cây đường kính chuẩn 13mm chốt ở mức 12.400 Đài tệ/tấn (378 USD/tấn) xuất xưởng Taichung. Triển vọng thị trường thép của Đài Loan cho tháng 9 và 10 cũng vẫn còn trì trệ, nhìn chung điều này sẽ gây thêm sức ép lên giá thép cây.