Nhật Bản
Nhìn chung tuần này thị trường thép Nhật Bản tiếp tục xu hướng tăng do giá phế tăng và nhu cầu được cải thiện.
Vào thứ Ba (3/9), các nhà phân phối thép dằm hình H đã tiến hành nâng giá bán trên thị trường trước khi nhà sản xuất tăng giá vì cho rằng sức mua thép đã cải thiện. Hiện tại, giá thép dầm hình H SS400 cỡ lớn tại hai thị trường Tokyo và Osaka đạt mức 73.000-74.000 JPY/tấn (737-747 USD/tấn), tăng thêm 1.000 Yên/tấn so với cuối tháng 8. Dự kiến giá thép tại 2 thị trường này sẽ tiếp tục đến mức 75.000 JPY/tấn vào trung tuần tháng 09.
Cũng trong ngày, nhà sản xuất Tokyo Steel thông báo nâng giá mua tất cả các loại phế ferrite tại các xưởng trong nước thêm 500 JPY/tấn (5USD/tấn) có hiệu lực từ ngày 4/9; theo đó mức tăng nằm trong phạm vi 3.000-4.000 JPY/tấn tùy thuộc từng loại phế; cụ thể giá phế H2 là 34.500 JPY/tấn (348 USD/tấn) giao tới các nhà máy tại Tahara, miền Trung Nhật Bản và các nhà máy ở Okayama và Kyushu, miền Tây Nhật Bản, riêng tại nhà máy ở Utsunomiya, phía Bắc tỉnh Kanto, công tỹ sẽ thu mua với giá 35.000 JPY/tấn. Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu phế Nhật lại khá trầm lắng, giá thu mua H2 chỉ giá 32.500-33.500 JPY/tấn fas vịnh Tokyo, giảm nhẹ so với mức giá thu mua cuồi tuần trước là 33.000-33.500 JPY/tấn fas.
Không nằm ngoài xu hướng chung, bắt đầu từ ngày 5/9, các thương nhân bắt đầu nâng giá bán trên thị trường trước thông báo tăng giá bán của công ty sản xuất vì nhận thấy sức mua sản phẩm tấm dày có dấu hiệu cải thiện tốt. Tại thị trường Toky, giá tấm cắt SS400 (1,524 x 3,048mm) 19MM hiện đạt mức 81.000-83.000 Yên/tấn (810-830 USD/tấn). Trong khi đó, giá thép tấm hỗn tạp ( mặt hàng không đạt chuẩn) đạt mức 77.000-79.000 Yên/tấn. Như vậy, so với cuối tháng 8, giá cả hai mặt hàng này đều nhích thêm 1.000 Yên/tấn.
Tại thị trường thép không gỉ, hôm 4/9, Nippon Steel & Sumikin Stainless (NSSC) đã quyết định giữ nguyên giá tháng 9 đối với các mặt hàng thép tấm và CRC không gỉ. NSSC không tiết lộ mức giá niêm yết của nó, tuy nhiên, theo nhận định của thị trường, giá thép tấm cắt cán nguội 304 2mm sẽ đạt mức 295.000 Yên/tấn (2.962 USD/tấn) và loại 430 vẫn ở mức 240.000 Yên/tấn (2.410 USD/tấn). Có nhiều ý kiến trái chiều về quyết định này, một số thì hoan nghênh, số khác thì tỏ ra không hài lòng; giá tăng có thể kéo giá thị trường tăng lên tuy nhiên nhu cầu hiện nay lại không đủ mạnh để có thể tăng giá.
Hàn Quốc
Tuần này thị trường thép Hàn Quốc khá trầm lắng vì nhu cầu tiêu thụ thép còn yếu; cụ thể vào hôm thử Hai (2/9), giá thu mua phế đồng loạt các nhà máy như Huyndai Steel, Korea Iron & Steel và một số nhà máy sản xuất thép hoạt động tại khu vực ven biển phía Đông Nam Hàn Quốc giảm 10.000 Won/tấn (9 USD/tấn); còn hôm 03/09), các nhà máy sản xuất quanh khu vực Busan thu mua phế H2 sản xuất trong nước với giá 350.000-370.000 Won/tấn (319-337 USD/tấn). tại thị trường thép không gỉ, Posco Specialty Steel vẩn duy trì giá bán thép cây và cuộn trơn không gỉ austenitic tháng 09 không đổi so với giá tháng 08 do sự sụt giảm mạnh giá nicken trong tháng 08. Tuy nhiên phía công ty không tiết lộ giá bán chính thức; ước tính giá cuộn trơn không gỉ 300 sẽ ở khoảng 3.5 triệu Won/tấn (3.186 USD/tấn).
Đông Nam Á
Thị trường thép nhập khẩu Đông Nam Á tuần này nhìn chung khá trầm lằng do giá chào bán cao trong khi sức mua chậm vì sự sụt giảm đồng nội tệ của một số nước trong khu vực.
Đầu tuần, thông tin từ các thương nh6an khu vực cho biết giá nhập khẩu thép hinh H S275 kích cỡ lớn giao cuối tháng 09 và trong tháng 10 từ các nhà sản xuất trong khu vực Đông Á vẫn duy trì tại mức giá 680-690 USD/tấn cfr Singapore và Đông Nam Á; thị trường giao dịch chậm chạp vì hàng dự trữ còn nhiều; sự suy giảm của nội tệ Malaysia và Indonesia; trong khi các nhà sản xuất lại muốn bán được sản phẩm với giá tối thiểu 700 USD/tấn cfr; dự kiến giá bán có thể tăng lên mức 690-700 USD/tấn cfr trong thời gian tới.
Tại thị trường nhập khẩu phôi, giá phôi thanh vẫn duy trì tại mức 535-540 USD/tấn CFR Đông Nam Á, không đổi so với tuần trước; do nhu cầu tiêu thụ chậm vì sự mất giá của đồng tiền khu vực so với USD.
Trong khi đó tại Việt Nam, thị trường nhập khẩu cuộn cán nóng vẫn tiếp tục suy yếu, kéo giá chào bán HRC giảm 5-10 USD/tấn so với giá chào tuần trước. Cụ thể, giá chào bán từ Ấn Độ cho lô hàng HRC SAE 1006 2mm giao tháng 10-11 chỉ đạt mức 565 USD/tấn CFR, giảm từ mức giá 570 USD/tấn CFR tuần trước; giá chào bán xuất khẩu HRC SAE 1006 2mm thêm boron từ Trung Quốc đạt mức 580-590 USD/tấn CFR, giảm từ mức 590 USD/tấn CFR tuần trước, tuy nhiên, giá chào đối với hàng từ các nước Châu Á khác vẫn không đổi trong 2 tuần qua, Hàn Quốc là 590-600 USD/tấn CFR, Đài Loan đạt mức 600 USD/tấn CFR, và Nhật Bản là 600-610 USD/tấn CFR; Được biết trong tuần, một lô hàng 35.000-40.000 tấn HRC SAE 1006 2mm giao tháng 12 nguồn gốc Brazil được đặt mua với giá 570 USD/tấn CFR; một nhà cán lại cũng đặt mua 25.000 tấn HRC 2mm giao tháng 10-11 từ Nhật Bản tại giá 575-585 USD/tấn CFR. Nhìn chung khách hàng không tỏ ra quan tâm với các mức giá chào được cho là quá cao trên.
Ấn Độ
Tuần này do đồng rupee suy yếu so với đồng USD khiến mặt hàng thép HRC nhập khẩu không thể cạnh tranh nổi về giá so với hàng trong nước và chi phí nguyên liệu đầu vào nhập khẩu tăng là nguyên nhân làm cho các nhà sản xuất nội địa nâng giá bán. Tại thị trường trong nước, giá HRC tăng thêm 1.500-2.000 Rupee/tấn (22-30 USD/tấn). Giá giao dịch HRC A/B IS 2062 >=3mm hiện đạt mức 35.500-36.000 Rupees/tấn (538-545 USD/tấn) xuất xưởng, cao hơn so với mức giá 34.000-34.500 Rupee/tấn (515-522 USD/tấn) xuất xưởng tháng 8. Các đơn hàng khối lượng lớn được chốt ở mức 35.000 Rupees/tấn (530 USD/tấn) xuất xưởng vào tháng 9 này.
Trong khi đó đà trượt giá mạnh của đồng Rupee đã ngăn cản hoạt động nhập khẩu HRC vào thị trường Ấn Độ. Ngay cả khi giá nội địa nhảy lên thêm 20-30 USD/tấn, khoảng cách giứa giá nhập khẩu và hàng nội địa Ấn vẫn cách nhau tới 70-80 USD/tấn.
Trung Đông
Tuần này, tại thị trường xuất khẩu, Ezz Steel giữ nguyên giá bán cũ cho mặt hàng cuộn cán nóng St37 tại mức giá 580 USD/tấn fob đối với các khách hàng thuộc khối các quốc gia thuộc Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh; còn giá bán cho các khách hàng châu Âu thì thấp hơn mức giá trên 5-10 USD/tấn. Được biết từ đầu năm nay, nhà sản xuất thép hàng đầu Ai cập này đã thúc đẩy doanh số bán hàng ở nước ngoài nhằm tích trữ lượng lớn ngoại tệ là đống USD.
Mỹ
Thị trường tấm mỏng trong nước vẫn tiếp nối đà trầm lắng, hoạt động giao dịch trì trệ từ trước ngày lễ lao động (2/9) vào cuối tuần trước cho đến hết tuần này. Tuy nhiên do nguồn cung khá hạn chế, thêm vào đó một vài nhà máy sắp tới sẽ tạm ngưng hoạt động để bảo trì nên đã giúp cho tấm mỏng không bị trượt giá. Giá niêm yết tại Platss của HRC và CRC cho đến hôm thứ Sáu vẫn duy trì lần lượt tại 650-660 USD/tấn ngắn và 755-765 USD/tấn ngắn, đều xuất xưởng từ một nhà máy ở Trung Tây (Indiana). Ngược lại giá CRC nhập khẩu lại tăng nhẹ từ 630-650 USD/tấn ngắn CIF Houston lên 640-660 USD/tấn ngắn CIF Houston, còn HRC nhập khẩu vẫn duy trì tại mức 580-600 USD/tấn ngắn CIF Houston.
Thời gian qua với nguồn cung dồi dào tại các xưởng phế liệu và nhà máy, bên cạnh đó đa số nhà máy lại hạn chế thu mua phế hoặc chỉ mua với số lượng nhỏ hơn nhiều so với nhu cầu do tạm ngưng hoạt động vào ngày lễ lao động và lễ Rosh Hashanah vào thứ Năm và thứ Sáu tuần này khiến giá phế vụn giảm 10 USD/tấn dài xuống còn 360-365 USD/tấn dài, phế chuẩn cũng đã giảm 10 USD/tấn dài so với giá hồi tháng 08, còn phế HMS và phế công trình thì giảm trung bình 5 USD/tấn dài. Do giá giảm mạnh nên các nhà máy đã tranh thủ tăng cường thu mua.
Thổ Nhĩ Kỳ
Trong tuần này mặc dù sản lượng thép đã tăng trở lại sau lễ chay Ramadan nhưng do sự biến động của tỷ giá hối đoái cùng với bất ổn chính trị tại quốc gia láng giềng Syria gây ảnh hưởng nhiều đến thị trường thép trong nước và xuất khẩu. Ngoài ra, lượng hàng dự trữ trong nước vẫn đang ở mức cao càng làm tăng áp lực khiến giá giảm.
Đầu tuần giá giao dịch thực tế của HRC và CRC đều giảm 10 USD/tấn xuống mức lần lượt là cho 600-605 USD/tấn và 690 USD/tấn. Sau đó HRC lại tiếp tục lao dốc giảm thêm 10 USD/tấn xuống còn 590-600 USD/tấn xuất xưởng. HDG cũng giảm 10 USD/tấn so với tuần trước. Cụ thể, HDG dày 0.5mm có giá 810-830 USD/tấn xuất xưởng, loại dày 1mm là 780-790 USD/tấn xuất xưởng. Trong khi đó chào giá nhập khẩu từ CIS vẫn không đổi. Ukraina chào bán CRC với giá 620-635 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, còn giá của Nga là 645-660 USD/tấn CFR.
Thị trường thép cây xuất khẩu sang khu vực Trung Đông, Bắc Phi cũng ảm đạm do người mua đang lo lắng về nguy cơ cuộc chiến nổ ra tại Syria.
Mặc dù giá mua phế của các nhà máy trong nước tính theo đồng lira thì vẫn duy trì tại mức 370-375 USD/tấn, không đổi kể từ đầu tháng 08 nhưng nếu tính theo đôla Mỹ thì giá đã giảm 5 USD/tấn.
Châu Âu
Tại Tây Bắc Âu, do nguồn cung khan hiếm lại không có sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu, thêm vào đó dự đoán giá phế tháng 09 sẽ tăng thêm ít nhất là 5-10 EUR/tấn cũng như nhu cầu tái bổ sung hàng tồn đều tăng khiến các nhà sản xuất ở đây đã quyết định nâng giá bán thép cây lên quanh mức 260-280 EUR/tấn. Còn giá thép cây nhập khẩu là 505 EUR/tấn gồm phí vận chuyển.
Còn HRC theo đánh giá của Platts thì giá đã ở mức thấp nhất kể từ 11/2012. Hiện tại giá phổ biến trên thị trường không tới 550 EUR/tấn.
Tại Nam Âu, Italia đã nâng giá thép cuộn lên 450-460 EUR/tấn xuất xưởng cơ bản; CRC và HDG hiện đang được chào bán với giá lần lượt là 515-520 EUR/tấn xuất xưởng và 500 EUR/tấn xuất xưởng. Tuy hàng nhập khẩu đang được chào bán nhiều nhưng giá cũng không cạnh tranh lắm.
CIS
Trong tuần này lần đầu tiên kể từ tháng 10/2011 phôi tấm có giá cao hơn phôi thanh. Nguyên nhân là do các thương nhân muốn nhanh chóng giải quyết đống phôi thanh còn tồn trong kho, ngoài ra thị trường thép thành phẩm ở Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã chững lại do lo ngại nguy cơ cuộc chiến sẽ nổ ra tại Syria khiến nhu cầu nhập khẩu của các nhà cán lại bị hạn chế; các quốc gia ở Trung Đông cũng rất lo lắng về tình hình chiến sự trong khu vực khiến giá phôi thanh xuất khẩu tại Platts giảm mạnh xuống còn 498 USD/tấn FOB Biển Đen. Đây là lần đầu tiên giá niêm yết của Platts rớt dưới 500 USD/tấn FOB từ ngày 01/7.
Ngược lại lực mua ở Châu Á được cải thiện và thị trường Châu Âu cũng đã giao dịch trở lại sau kỳ nghỉ giúp cho giá phôi tấm xuất khẩu tăng lên 505-520 USD/tấn FOB Ukraina/ Nga.
Trong tuần này, giá xuất khẩu HRC giao tháng 11 tới Thổ Nhĩ Kỳ lại tăng thêm 10 USD/tấn mặc dù người mua vẫn chưa chấp nhận giao dịch với giá này: 545-555 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ (Ukraina), còn chào giá của Nga là 565-580 USD/tấn CFR.
Giá bán đối với cuộn trơn sản xuất tháng 10 giảm xuống còn 595 USD/tấn FOB Biển Đen do mọi người đang rời khỏi thị trường và có tâm lý chờ đợi giá phôi thanh sắp tới như thế nào rồi mới quyết định đặt mua.
Thị trường thép cuộn xuất khẩu Biển Đen trong tuần này vẫn trầm lắng. Mặc dù giá chào bán là 555 USD/tấn FOB Biển Đen, thế nhưng nhiều nhà máy đã chấp nhận giao dịch với giá 545 USD/tấn nhưng vẫn có rất ít khách hàng đồng ý mua. Nguyên nhân có thể kể đến là do nhu cầu tái bổ sung hàng tồn của các khách hàng ở Trung Đông sau lễ chay Ramadan không nhiều như mọi năm. Nhưng lý do mấu chốt nhất vẫn là tình hình chiến sự đang nóng lên từng ngày ở Syria vì vậy các thương nhân trong khu vực này đều tạm hoãn các giao dịch lại và “nín thở” chờ xem diễn biến như thế nào. Thêm vào đó mức giá chào bán lại không cạnh tranh bằng hàng có xuất xứ từ Trung Quốc và Ấn Độ.