Nhật Bản
Tuần này thị trường thép xây dựng trong nước khởi sắc với niềm tin ngành xây dựng sẽ tăng tốc trong những tháng cuối năm.Theo nguồn tin cho biết, nhà máy Tokyo Steel Manufacturing đã chứng tỏ hơn nữa niềm tin vào sự hồi phục của thị trường thép xây dựng Nhật Bản bằng thông báo tăng giá niêm yết hầu hết các mặt hàng thép tháng 10 thêm 2.000 Yên/ tấn (20 USD/tấn), trừ các mặt hàng thép HDG, thép cây và thép hình vãn được giữ nguyên. Như vậy sau khi điều chỉnh, giá thép dầm hình H SS400 cỡ lớn tăng lên mức 76.000 Yên/tấn (768 USD/tấn),giá HRC SPHC 17-22mm đạt mức 64.000 Yên/tấn (646 USD/tấn) và giá thép tấm SS400 9-40mm đạt mức 71.000 Yên/tấn (717 USD/tấn).
Tương tự tại thị trường thép hinh, Tokyo Steel cũng đã thông báo tăng giá niêm yết thép dầm hình H tháng 10 thêm 3.000 Yên/tấn tại các xưởng thuộc Utsunomiya do chi phí sản xuất tăng; hưởng ứng theo nhà máy này, một loạt nhà máy khác như Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC), Nippon Steel & Sumikin Shapes và Yamato Kogyo đều đã thông báo tăng giá thép dầm hình H thêm 3.000 Yên/tấn (30 USD/tấn), góp phần tạo động lực thúc đẩy sự phục hồi của thị trường thép Nhật Bản. Trong khi đó, giá thép dầm hình H SS400 cỡ lớn tại Tokyo và Osaka vẫn cố định ở mức 73.000-74.000 Yên/tấn (730-740 USD/tấn).
Bên cạnh đó, tại thị trường phế trong nước, giá thu mua tiếp tục tăng do nguồn cung hạn chế trong khi các nhà sản xuất cần tích trữ nhiều nguồn vật liệu để tăng công suất sản xuất trong mùa lễ hội sắp tới khi mà giá điện giảm. Cụ thể Tokyo Steel tăng giá thu mua tất cả các mặt hàng phế thêm 1.000 YÊN/tấn (10 USD/tấn) tại các công xưởng ở Utsunomiya phía Bắc tỉnh Kanto, đẩy giá thu mua phế H2 tăng lên mức 36.000 Yên/tấn (364 USD/tấn).
Đài Loan
Trong tuần này, Feng Hsin Iron & Steel, nhà sản xuất thép cây lớn nhất Đài Lona tiếp tục giảm giá bán thép cây trong nước thêm 300 Đài tệ/tấn (10 USD/tấn) do giá phế giảm. sau khi điều chỉnh, giá niêm yết thép cây kích cỡ cơ bản đã giảm xuống còn 17.600 Đài tệ/tấn (592 USD/tấn) xuất xưởng Cao Hùng. Còn giá thu mua phế HMS I/II (80/20) của Feng Hsin tiếp tục giảm thêm 200 Đài tệ/tấn xuống còn mức 10.100 Đài tệ/tấn.
Đông Nam Á
Thị trường thép Đông Nam Á tuần này nhìn chung vẫn còn trì trệ; tại thị trường phôi, các giao dịch phôi xuất khẩu hầu như không có, tuy nhiên, giá chào bán vẫn dúy trì tại mức cũ trong bối cảnh tình hình tiêu thụ vô cùng chậm chạp. Hiện tại, giá chào lô hàng phôi vuông sản xuất thép cuộn tháng 12 từ Ukraina đạt mức 540-550 USD/tấn CFR, và phôi vuông làm thép tấm đạt mức 550 USD/tấn CFR.
Bên cạnh đó, tại thị trường nhập khẩu cuộn cán nóng; hầu như không có đơn hàng nào được chốt. Giá chào bán từ Ấn Độ trong tuần đạt mức 560 USD/tấn CFR Việt Nam; giá chào cho lô hàng HRC SAE 1006 2mm giao tháng 9/10 từ Trung Quốc đạt mức 555 USD/tấn CFR Việt Nam; còn giá chào bán từ phía Trung Quốc đối với các lô hàng tháng 12 đạt mức 575-580 USD/tấn CFR, giảm 5-10 NDT/tấn so với tuần đầu tháng 9.
CIS
Thị trường phôi thanh xuất khẩu của CIS trong tuần này đã chững lại sau khi những người tiêu dùng trực tiếp ở khu vực Trung Đông, Bắc Phi thu mua rầm rộ vào tuần trước. Đa số sản lượng tháng 10 vẫn chưa được bán hết và có giá chào bán đến những người tiêu dùng cuối cùng là 500 USD/tấn FOB Biển Đen và cảng biển Azov. Nhưng dù sao các nhà máy hàng đầu ở đây cũng cảm thấy bớt áp lực vì đã bán được hết sản lượng tháng 09 vào tuần trước. Giá đặt mua của các thương nhân ở khu vực Trung Đông không thay đổi nhiều, còn giá chào bán tầm 525 USD/tấn CFR Sohar. Tại Platts giá phôi thanh vẫn duy trì tại 496 USD/tấn FOB Biển Đen.
Thị trường thép cuộn xuất khẩu ảm đạm khiến giá không thể tăng và các nhà cung cấp ở đây chỉ muốn giữ cho giá như hồi tháng trước trong khi người mua lại đang đợi giá sản xuất tháng 10 và giao tháng 11 giảm thêm 5-10 USD/tấn. Tại Platts hôm thứ Ba, HRC và CRC của Biển Đen có giá lần lượt là 530 USD/tấn và 608 USD/tấn.
Thổ Nhĩ Kỳ
Thị trường HRC ở Thổ Nhĩ Kỳ đã phục hồi trở lại do căng thẳng giữa Mỹ và Syria dường như đã lắng xuống. Giá giao dịch thực tế trong nước của HRC và CRC lần lượt là 590-600 USD/tấn và 690 USD/tấn. Chào giá HRC giao tháng 11 từ các nhà cung cấp của CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng thêm 5 USD/tấn so với đầu tháng 09; CRC nhập khẩu từ Ukraina và Nga cũng cao hơn 5 USD/tấn so với trước đây nhưng người mua vẫn chưa vội đặt hàng nên tình hình hiện vẫn rất ảm đạm ở thị trường trong nước và nhập khẩu.
Tuy sự biến động tỷ giá cùng với cuộc khủng hoảng ở Syria đã làm nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giảm mạnh nhưng giá thép ống hàn của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn duy trì ổn định từ đầu tháng 09 tới nay và dự đoán sức mua sẽ tăng theo đà phục hồi của HRC. Giá xuất xưởng của thép ống cán nóng ERW loại S235 dày 2-4mm và thép ống cán nguội ERW dày 1.2-1.5mm ở trong nước lần lượt là 680-700 USD/tấn và 750-800 USD/tấn. Thép ống hàn cán nguội loại S235 dày 2mm, đường kính 48mm và thép ống cán nguội loại S275 ở thị trường xuất khẩu có giá lần lượt là 720-740 USD/tấn FOB và 750-770 USD/tấn FOB, còn loại S355 được chốt tại 780-800 USD/tấn FOB.
Cuộn trơn và thép cây giảm thêm 55 TRY/tấn (28 USD). Theo đó giá bán mới của thép cây đường kính 12-32mm là 1.395 TRY/tấn xuất xưởng (698 USD/tấn) còn giá cuộn trơn dao động quanh mức 1.415-1.480 TRY/tấn xuất xưởng, giảm 35 TRY/tấn, giá trên bao gồm VAT 18%. Tuy nhiên giá thép cây giao tháng 10 xuất khẩu lại giảm do giá phế nhập khẩu đã hạ nhiệt, thêm vào đó là sự cạnh tranh của hàng xuất xứ Trung Quốc tới các quốc gia thuộc khu vực Trung Đông với giá cả cạnh tranh hơn. Tại Platts hôm thứ Năm, giá thép cây giao tháng 10 đã giảm 5 USD/tấn xuống còn 565 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ.
Trong tuần này, các nhà máy lại tiếp tục nâng giá mua phế DKP trong nước thêm 10 TRY/tấn lên 710-770 TRY/tấn (354-384 USD) nhằm đảm bảo nguồn cung để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất gia tăng, ngoài ra còn do sự mất giá của đồng lira. Tuy nhiên, giá phế từ tàu cũ vẫn duy trì ổn định trong tuần này. Thời gian gần đây các nhà máy đã ưu tiên thu mua phế nội địa làm giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung bên ngoài, bên cạnh đó chi phí cũng ổn định không biến động nhiều theo tỷ giá.
Mỹ
Trong tuần này tấm mỏng liên tục rớt giá mặc dù các nhà sản xuất đã nỗ lực kiên quyết giữ cho giá không bị lao dốc nhưng cũng không thắng nổi tâm lý bi quan trên thị trường và đây cũng là nguyên nhân chính tác động xấu đến giá, bên cạnh đó có thể kể đến là do sức mua yếu, chi phí nguyên vật liệu giảm mạnh và còn phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của hàng nhập khẩu. Cụ thể, giá phế ferrite nhập khẩu vào Mỹ đã giảm 10 USD/tấn so với tháng 08 còn 400 USD/tấn. Còn giá phế ferrite lô nhỏ xuất khẩu từ bờ biển phía Tây cũng giảm 5 USD/tấn theo đà giảm của các lô lớn giao cuối tuần trước xuống còn 315-320 USD/tấn FAS.
Giá xuất xưởng của HRC và CRC đều giảm 10 USD/tấn ngắn xuống mức lần lượt là 640-650 USD/tấn ngắn và 745-755 USD/tấn ngắn. Hiện có rất nhiều ý kiến trái chiều về xu hướng giá trong thời gian tới.
Giá thép dầm bản rộng vẫn duy trì tại 730-750 USD/tấn ngắn xuất xưởng do nhu cầu tiêu thụ rất chậm.
Châu Âu
Nhìn chung thị trường thép cây ở Bắc và Nam Âu vẫn ổn định và giá không đổi kể từ tuần trước đến nay. Giá giao thực tế của thép cây đường kính 12mm (loại thép cây phổ biến) ở Bắc và Nam Âu ổn định tại mức lần lượt là 520-530 EUR/tấn và 470-480 EUR/tấn. Thị trường nhập khẩu cũng bắt đầu hoạt động trở lại sau khi im ắng từ đầu tháng tới nay. Hiện nay, giá chào bán của Thổ Nhĩ Kỳ là cạnh tranh nhất chỉ quanh mức 470-480 EUR/tấn giao hàng thực tế nhưng lại giao vào cuối tháng 10.
HRC vẫn đang được giao dịch phổ biến ở mức 460 EUR/tấn xuất xưởng Ruhr. Riêng các nhà máy ở Tây Bắc Âu là có giá chào bán cao hơn một chút. Thép thanh tròn cán nóng loại C45 đường kính 50-150mm vẫn duy trì không đổi từ tháng 06 tới nay tại 580-600 EUR/tấn gồm phí vận chuyển do nhu cầu tiêu thụ không tăng sau hè nhưng dự đoán nhu cầu tiêu thụ sẽ phục hồi nhẹ trong tháng 10 và tháng 11 nhờ lực mua nhằm tái bổ sung hàng tồn nhưng sẽ không nhiều vì sắp đến cuối năm.
Nhà máy Riva ở Italia tạm ngưng hoạt động đã gây nhiều biến động trên thị trường phế ở khu vực phía Nam. Các nhà cung cấp đã giảm giá để tranh thủ bán hết số hàng trước đây được dự định giao cho nhà máy Riva. Với nguy cơ nguồn cung trong nước dư thừa cũng như hàng cập cảng từ miền Nam nước Đức và Pháp có thể khiến cho giá phế trong tháng 10 suy yếu. Giá trung bình của phế HMS loại E3 khoảng 270-275 EUR/tấn; phế sạch E8 có giá 295-300 EUR/tấn và phế vụn E40 được bán với giá 290-300 EUR/tấn, gồm phí vận chuyển.
Giá thép tấm đã nhích nhẹ lên 5-10 EUR/tấn do các nhà máy kiên quyết tăng giá chào bán bất chấp thị trường vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi. Giá của thép tấm loại S235 ở Tây Bắc Âu quanh mức 520-540 EUR/tấn; còn chào giá nhập khẩu cũng đã tăng lên 450-460 EUR/tấn CIF Antwerp.