Mỹ
Sau khi duy trì ổn định trong tuần qua, thị trường phế Mỹ tuần này đã suy yếu do các nhà máy đã có lỗ hổng trong đơn hàng cộng với giá phế giảm.
Tại thị trường thép cuộn, giá giao dịch suy yếu nhẹ hướng về cuối tuần do sức mua xuống mức thấp. Gía 660 USD/tấn vẫn là mức phổ biến đối với HRC trong nước, tuy nhiên, có nơi chỉ giao dịch tại mức 650 hoặc 640 USD/tấn tùy thuộc vào khối lượng đơn hàng.
Giá xuất khẩu phế Mỹ tới Đông Nam Á cũng giảm hơn nữa trong tuần, còn 315 USD/tấn CFR dưới áp lực giá quặng sắt xuyên đáy 80 USD/tấn , cộng với nguồn cung phôi thanh giá rẻ từ Trung Quốc và nhu cầu tiêu thụ suy yếu tại Châu Á.
Trong khi đó, nhờ nguồn cung thắt chặt nên thị trường thép cây Mỹ được hỗ trợ. Gía thép cây chào bán từ Midwest vẫn ổn định ở mức 650 USD/tấn xuất xưởng.
Trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ khó khăn và tình hình suy yếu chung của thị trường thép thế giới, giá thép Châu Âu cũng đã giảm nhẹ theo đà của giá phế nội địa.
Tâm lý thị trường thép cây và phế Nam Âu đã suy yếu trong suốt tuần do những diễn biến tiêu cực của giá phế và thị trường thép dài thế giới.
Tại Nam Âu mà tiêu biểu là Tây Ban Nha, thị trường phế đã giảm nhẹ xuống 10 Euro/tấn .Tại Ý, giá phế cũng đang có xu hướng suy yếu. Trong khi đó, thị trường thép cây cũng đang hứng chịu áp lực từ thị trường thế giới. Các nhà xuất khẩu Tây Ban Nha và Ý đã giảm nhẹ giá chào bán xuống còn 420 Euro/tấn FOB Nam Âu, thấp hơn 5-10 Euro/tấn so với trong hè. Các nhà máy Tây Ban Nha đang chào bán thép cây tới Algeria với giá 448-450 Euro/tấn CIF.
Giá chào HRC từ các nhà máy Châu Âu vẫn đạt mức trung bình 425-435 Euro/tấn. Tuy nhiên, triển vọng giá ổn định cũng khá mong manh do đang có chiều hướng trở về mức giá cũ trước khi tăng giá.
Thổ Nhĩ Kỳ
Giá thép Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang chịu áp lực giảm giá từ giá phế giảm và sức mua trì trệ. Động lực duy nhất hỗ trợ giá thép lúc này là đồng lira mất giá.
Giá mua phế tàu của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ theo đồng dolla đã giảm thêm 5-10 USD/tấn. Giá phế HMS từ xác tàu vỡ hiện được chào bán tới các nhà máy phía Tây gồm IDC và Habas là 370 USD/tấn.
Giá chào thép mạ xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đã lún sâu hơn do nhu cầu tiêu thụ tại các thị trường xuất khẩu chính của Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu trong khi tỷ giá hối đoái biến động. Giá chào HDG 0.5mm xuất khẩu Thổ nhĩ Kỳ đã giảm thêm 5 USD/tấn còn 765-790 USD/tấn FOB trong khi giá chào xuất khẩu PPGI 9002 0.5mm đạt mức 865-890 USD/tấn FOB, giảm cùng mức tương tự.
Tuy nhiên, giá chào HDG 0.5mm trong nước vẫn tương đối ổn định tại mức 780-810 USD/tấn xuất xưởng trong khi chào giá PPGI 9002 0.5mm cũng không đổi, đạt mức 880-910 USD/tấn xuất xưởng. Dù vậy, các nhà máy vẫn đang chiết khấu cho các đơn hàng lớn.
Trong khi đó, giá chào HRC sản xuất tháng 11 vẫn đạt mức 590-605 USD/tấn xuất xưởng, không đổi so với tuần qua trong khi giá chào xuất khẩu là 580-585 USD/tấn FOB.
Giá chào CRC xuất xưởng từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ổn định tại mức 685-700 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá xuất khẩu cố định tại mức 670-680 USD/tấn kể từ đầu tháng 9. Gía chào nhập khẩu mới nhất từ CIS đạt mức 640-670 USD/tấn CFR, tuy nhiên, vẫn chưa có giao dịch nào lớn trong những tuần gần đây.
Trong khi đó, nhà máy Kardemir đã tăng giá thép cây và cuộn trơn trong nước do đồng Lira suy yếu mạnh .Gía chào bán thép thanh tròn đặc từ nhà máy này hiện tại là 1.305 TRY/tấn (584 USD/tấn) xuất xưởng, tăng 21 TRY/tấn (9.4 USD/tấn) so với giá niêm yết ngày 26/8. Thép cây cũng tăng cùng mức tương tự lên 1.288 TRY/tấn (577 USD/tấn) xuất xưởng.
Sau một hồi vắng bóng trên thị trường Biển Đen do ảnh hướng từ cuộc nội chiến, các nhà máy Ukraina dường như đang chuẩn bị trở lại sản xuất.
Giá xuất khẩu phôi phiến Nga vẫn chưa xác định do các nhà máy nhất quyết giữ giá bán là 495-505 USD/tấn trong khi người mua chỉ chấp nhận trả ở mức 480-485 USD/tấn. Dưới ánh sáng phục hồi của ngành dịch vụ đường sắt giữa Lugansk và Kiev, vài thương nhân cho rằng đây là tín hiệu tốt để nối lại hoạt động vận chuyển hàng hóa. Điều này có nghĩa là nhà máy Alchevsk Iron & Steel Works ở Lugansk đông Ukraina có thể sản xuất phôi phiến và thép tấm trở lại do có thể nhận được nguyên liệu thô.
Các nhà máy thép tấm Nga đã quyết định giữ nguyên giá thép trong tháng 10. Trong suốt tháng 9, họ đã tăng giá thép tấm thêm 100-250 Rub/tấn (3-7 USD/tấn) nhờ vào giá phế tăng và nguồn cung hạn chế từ Ukraina do các xưởng Alchevsk ngưng sản xuất.
Đối với các đơn hàng tháng 10, phần lớn vẫn nhờ vào sự vắng mặt của nhà máy Alchevsk Ukraina, giá thép tấm 16-40mm dường như cố định tại mức 19.600-19.650 Rub/tấn (508-509 USD/tấn) xuất xưởng. Nếu giao tới Maxcova, giá thép tấm đạt mức 21.300-21.400 Rub/tấn (552-555 USD/tấn) CPT.
Trong khi đó, tâm lý thị trường xuất khẩu Biển Đen dần suy yếu trước áp lực nhập khẩu từ Trung Quốc, tình hình thị trường Mỹ im ắng và dự báo sản lượng thép Nga tăng trở lại.
Nhà máy Zaporizhstal Ukraina thuộc Tập đoàn Metinvest vẫn đang mở cửa nhận các đơn hàng thép cuộn sản xuất tháng 10-11 tại mức 535-540 USD/tấn FOB Biển Đen. Trong khi đó, Metinvest cũng đang lên kế hoạch mở cửa nhận lại đơn hàng tại nhà máy Illyich ở Mariupol. Tuy nhiên, các nhà máy Nga lại tỏ ra khá im ắng trước dự báo sẽ chào bán thép tháng 11 vào tuần tới.
Hàn Quốc
Nhà máy Hyundai Steel cho biếtsẽ nâng giá thép dầm hình H và thép hình lên 20.000 Won/tấn (19 USD/tấn) cho tháng 10. Theo đó, thép dầm hình H cỡ nhỏ sẽ tăng lên 810.000 Won/tấn (778 USD/tấn) và các loại thép hình như thép góc và thép lòng máng sẽ là 790.000 Won/tấn.
Động lực giúp nhà máy này tăng giá nhờ vào sản lượng thép nhập khẩu từ Trung Quốc đã giảm sau khi Ủy ban thương mại Hàn Quốc bắt đầu cuộc điều tra chống bán phá giá hồi tháng 07.
Hyundai và các nhà thầu xây dựng trước đó đã thống nhất giá thép cây loại SD400 đường kính 10mm cho quý III là 685.000 Won/tấn, giảm 25.000 Won/tấn so với quý II.
Nhật Bản
Các nhà sản xuất thép cây Nhật Bản đang chuẩn bị gây thêm sức ép lên các khách hàng để họ chấp nhận mức giá cao hơn vì mùa xây dựng cao điểm truyền thống đã bắt đầu. Giá trên thị trường hiện nay của thép cây cỡ thường (16-25mm) tại Tokyo ở khoảng 65.000-66.000 Yên/tấn (597-607 USD/tấn), giảm 5.000 Yên/tấn so với đầu năm nay, còn giá ở Osaka thì cỡ 62.000-63.000 Yên/tấn, thấp hơn khoảng 3.000 Yên/tấn.
Ngoại trừ các nhà sản xuất cung ứng cho khu vực Kanto, xung quanh Tokyo, còn các nhà máy ở những nơi khác trong nước đều đang cố gắng đẩy giá lên vì giá trên thị trường của họ thấp hơn. Giá ở Kanto cũng cao hơn một chút.
Tokyo Steel tiếp tục duy trì giá niêm yết trong nước do khối lượng thép vận chuyển đã chậm hơn so với dự đoán. Giá thép của Tokyo Steel đã duy trì không đổi trong 9 tháng liền.Theo đó, giá niêm yết của nhà máy mini này cho thép dầm hình H cỡ lớn SS400 vẫn ở mức 80.000 Yên/tấn (734 USD/tấn) cho các hợp đồng tháng 10 trong khi HRC loại SPHC dày 1.7-22mm duy trì mức 66.000 Yên/tấn (606 USD/tấn).
Ấn Độ
Thị trường HRC Ấn Độ vẫn ổn định trong tuần do sự suy yếu từ giá chào nhập khẩu Trung Quốc yếu rất có thể đã làm cản trở việc nâng chào giá của các nhà máy trong nước cho những hợp đồng tháng 10.
Giá giao dịch HRC IS2062 loại A/B dày từ 3mm trở lên tiếp tục duy trì mức trung bình 34.500-35.500 rupees/tấn (566-583 USD/tấn) xuất xưởng, tương đương 527-542 USD/tấn CFR Mumbai (trong đó thuế suất nhập khẩu 7.5%).
Các chào giá HRC SS400 loại thương phẩm dày từ 3mm trở lên xuất xứ Trung Quốc trong khoảng 480-485 USD/tấn FOB (tương đương 510-515 USD/tấn CFR Mumbai).
Các nhà kinh doanh thép ở Đông Nam Á càng bi quan hơn sau khi giá quặng sắt giao ngay “chọc thủng” ngưỡng 80 USD/dmt trong ngày đầu tuần, đây là mức thấp nhất kể từ tháng 10/2009.
Một vài nhà máy low-tier Trung Quốc đã hạ giá xuất khẩu cho cuộn trơn SAE1008 đường kính 6.5mm còn 410-415 USD/tấn FOB. Một thương nhân thậm chí còn nghe tin đồn về một chào giá chỉ có 400 USD/tấn FOB.
Giá cuộn trơn đường kính 5.5mm đang phổ biến tầm 440-445 USD/tấn CFR Thái Lan.
Feng Hsin Iron & Steel đã cắt giảm giá niêm yết trong nước cho thép thanh chịu lực xuống 500 Đài tệ/tấn (17 USD/tấn) sau khi giá phế toàn cầu suy yếu. Đây là lần điều chỉnh đầu tiên mà nhà máy này thực hiện trong hơn 3 tháng qua. Theo đó, thép cây đường kính chuẩn 13mm của Feng Hsin còn 17.400 Đài tệ/tấn (575 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung.