Thổ Nhĩ Kỳ
Thị trường dài cũng như thép dẹt Thổ Nhĩ Kỳ lại tiếp tục suy yếu trong tuần này do nhu cầu tiêu thụ thấp, sức ép cạnh tranh từ Trung Quốc và giá phế nội địa giảm mạnh. Hiện tại, động lực duy nhất hỗ trợ thị trường là dự án xây dựng đường ống dẫn khí TANAP giúp kích cầu HRC.
Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục gặp áp lực từ sức mua suy yếu tại các thị trường xuất khẩu chính như Bắc Phi/ Ai Cập và Mỹ do giá chào không đủ cạnh tranh với Trung Quốc. Chào giá xuất khẩu từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ là 545-550 USD/tấn FOB, tuy nhiên, giá chốt chỉ ở mức 535 USD/tấn FOB.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang chào bán vào Houston tại mức 560-565 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tuy nhiên, giá này không thu hút.
Trong khi đó, theo xu hướng giảm của giá phôi thanh nhập khẩu, giá phôi thanh chuẩn trong nước dao động trong khoảng 490-510 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào nhập khẩu từ CIS là 480-490 USD/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ tùy thuộc vào cảng nhập khẩu.
Tại thị trường thép mạ, mặc dù giá chào trong nước và xuất khẩu đối với thép mạ đã giảm 10-15 USD/tấn trong tuần qua nhưng sức mua vẫn suy yếu gây sức ép lên tâm lý thị trường. Gía chào bán rẻ từ Trung Quốc tới các thị trường xuất khẩu chính của Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục là gánh nặng cho các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ.
Giá chào xuất khẩu đối với HDG 0.5mm là 750-765 USD/tấn FOB, không đổi so với tuần trước nhưng giảm 20 USD/tấn so với đầu tháng 10 trong khi giá xuất khẩu PPGI 9002 0,5mm đứng tại mức 850-880 USD/tấn FOB, giảm cùng mức.
Giá chào HDG 0.mm trong nước suy yếu 10 USD/tấn còn 770-790 USD/tấn xuất xưởng tuần qua trong khi PPGI 9002 0.5mm là 870-900 USD/tấn xuất xưởng. Tuy nhiên, các nhà máy vẫn tiếp tục chiết khấu 10 USD/tấn, thậm chí tại mức giá này.
Giá thép mạ giảm do áp lực từ giá HRC suy yếu 10-15 USD/tấn trong tuần này, xuống còn 570-585 USD/tấn xuất xưởng.
Trong khi đó, giá CRC Thổ Nhĩ Kỳ vẫn bình ổn sau khi đã giảm 20 USD/tấn trong tháng. Giá CRC xuất xưởng từ các nhà máy trong nước hiện tại là 670-690 USD/tấn trong khi giá chào xuất khẩu cũng bình ổn tại mức 660-680 USD/tấn xuất xưởng tuần này.
Giá chào nhập khẩu từ CIS cũng tương đối bình ổn.Các nhà máy Ukraina chào bán CRC tại mức 610-620 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ trong khi các giá chào từ Nga cao hơn 10-15 USD/tấn.
Mỹ
Thời điểm cuối năm cận kề đã khiến cho các nhà máy thép trong nước nôn nóng giải phóng hàng tồn để tránh thuế tồn kho cuối năm cao. Bên cạnh đó, sức mua vẫn thấp và giá nguyên liệu thô giảm theo xu hướng chung của toàn thế giới đã gai tăng áp lực cho ngành thép.
Đồng dolla tăng, khối lượng xuất khẩu suy yếu và giá quặng giảm đang gây áp lực cho giá phế Mỹ. Trong Hội nghị phát biểu về doanh thu tuần này, các lãnh đạo công ty Steel Dynamics Inc. và chi nhánh của nó- OmniSource cho biết xuất khẩu phế trong nửa đầu năm 2014 giảm 19% so với cùng kỳ năm ngoái do nguồn cung quá mức trên thị trường. Giá xuất khẩu phế Mỹ tới Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm từ mức 370 USD/tấn CFR tháng 9 xuống còn 332 USD/tấn CFR đối với phế HMS 80:20. Gía chào gân đây nhất từ Mỹ xuống dưới mức 339 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ.
Thị trường thép cuộn tiếp tục tìm kiếm mức giá đáy do nhu cầu tiêu thụ chậm và ảnh hưởng nhỏ từ quyết định điều tra chống bán phá giá HRC nhập khẩu Nga. Một người mua cho biết có thể mua được HRC xuất xưởng Midwest với giá 640 USD/tấn và CRC tại mức 760 USD/tấn. Các người mua tìm kiếm vài ngàn tấn có thể mua tại mức 620 USD/tấn trong khi các nhà máy thép ống và người mua khối lượng lớn khác đang trả gần mức 600-610 USD/tấn.
Giá thép tấm cũng giảm do áp lực hàng tồn kho tăng và thời gian giao hàng rút ngắn. Thép tấm nhập khẩu vẫn có sẵn ở cảng Vịnh tại mức 730-740 USD/tấn CIF Houston.
Châu Âu
Giá thép cuộn và thép tấm Châu Âu vẫn bình ổn do thị trường chờ đợi xu hướng rõ ràng hơn trong vài tuần tới.
Giá HRC tại Hanover vẫn ở mức 420-435 Euro/tấn đã gồm phí giao hàng. Các nhà máy sẽ làm mọi thứ để giữ giá không xuống dưới 400 Euro/tấn. CRC và HDG đứng ở mức 520 Euro/tấn. Thép tấm dày S235 có sẵn tại mức 540 Euro/tấn đã tính phí giao hàng.
Trong khi đó, thị trường nhập khẩu thép cuộn Nam Âu khá bận rộn trong với các đơn hàng giao vào Q1/2015. Các đơn hàng HRC từ Trung Quốc phần lớn được chốt tại mức 420 Euro/tấn CIF Nam Âu trong khi các đơn hàng cách đây nửa tháng được chốt ở mức thấp 410 USD/tấn CIF Ý.
Thị trường nhập khẩu CRC đang thu được lợi nhuận rõ ràng hơn, với hàng nhập khẩu Trung Quốc được đặt tại mức 470-475 Euro/tấn CIF Nam Âu trong khi giá chào trong nước ở mức tối thiểu 485 Euro/tấn xuất xưởng. Hầu như người mua đã đặt mua nguyên liệu tháng 12 từ Trung Quốc và sẽ nhận được vào tháng 2.
Thép cây Bắc Âu đã giảm 10 Euro/tấn qua do thị trường bắt đầu chịu ảnh hưởng từ giá phế suy yếu. Các nhà máy Đức cho biết đã bán được hàng tuần này tại mức giá 460 Euro/tấn đã tính phí giao hàng hàng.
Giá phế đã giảm 15-20 Euro/tấn trong tháng 10 do khối lượng xuất khẩu giảm và các nguồn tin dự báo sẽ còn giảm xuống 10 Euro trong tháng 11.
CIS
Giá thép cuộn xuất khẩu Nga đang gặp áp lực khiến giá giảm 10 USD/tấn đối với thép sản xuất tháng 11 giao tháng 12.
Nói về nguyên nhân giảm giá, một nhà máy dẫn chứng lý do từ giá quặng giảm và áp lực cạnh tranh gay gắt từ hàng nhập khẩu giá rẻ Trung Quốc trên các thị trường xuất khẩu chính của MMK mà điển hình là Trung Đông, Nam Mỹ và thậm chí Châu Âu. Nhu cầu tiêu thụ trong nước chậm chạp đã thúc đẩy Trung Quốc chuyển hướng sang xuất khẩu, với giá thép xuống dưới mức 500 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Giá HRC sản xuất tháng 11 do nhà máy MMK chào bán bán đầu đạt mức 420 Euro/tấn (532 USD/tấn) FOB Biển Đen nhưng hiện tại đã giảm còn 410-412 Euro/tấn FOB. Gía chào thép Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm xuống còn 530 USD/tấn cho HRC và 595 USD/tấn cho CRC.
Áp lực cạnh tranh từ Trung Quốc lên giá phôi thanh CIS đã giảm trong 10 ngày qua, điển hình là ở các thị trường Thổ Nhĩ Kỳ và Bắc Phi do các nhà xuất khẩu Trung Quốc đã tăng giá chào và đang bán hàng giao Q1 năm 2015
Các thương nhân xác nhận rằng giá chào gần đây nhất từ Trung Quốc tới các thị trường như Ai Cập rất gần với giá chào CIS. Một thương nhân xác nhận đã đặt mua hàng tại mức 475-480 USD/tấn CFR Jeddah từ Trung Quốc. Tuy nhiên, chi phí vận chuyển đã đẩy giá bán tới Ai Cập và Bắc Phi tăng, ít nhất lên mức 485 USD/tấn CFR.
Ấn Độ
Giá HRC Ấn Độ đã bình ổn trong tuần do thị trường im ắng trước lễ Diwali .
Giá giao dịch HRC cấu trúc A/B IS 2062 dày 3mm và cao hơn vẫn bình ổn ở mức 34.500-35.500 Rupees/tấn (562-578 USD/tấn) xuất xưởng. Gía này tương đương mức 523-538 USD/tấn CFR Mumbai nhập khẩu đã tính thuế 7.5%.
Trong khi đó, giá chào HRC thương phẩm SS400B 3mm và cao hơn vẫn ở mức 505-510 USD/tấn FOB, tương đương mức 545-550 USD/tấn CFR Mumbai tuần này, tương đương 33.758-34.002 Rupees/tấn.
Nhật Bản
Các nhà máy thép và thương nhân Nhật Bản đang thất vọng trước khối lượng xuất khẩu không được tăng như mong đợi sau khi đồng Yên sụt giảm. Sự suy yếu trên thị trường thép quốc tế đã chống đối lại bất cứ thuận lợi nào mà các nhà máy đạt được từ đồng Yên giảm.
Đầu tháng này, trên sàn giao dịch ngoại hối, đồng yên Nhật Bản chạm mức 110 Yên/USD, mức thấp nhất so với dolla kể từ tháng 8 năm 2008. Do hầu như toàn bộ các thị trường xuất khẩu phế Nhật đều giao dịch bằng đồng USD nên các nhà máy và thương nhân Nhật đã hy vọng rằng đồng Yên suy yếu sẽ cho phép họ điều chỉnh giá linh hoạt và dẫn đến tăng khối lượng xuất khẩu.
Trong khi đó, tại thị trường trong nước, các nhà máy thép hình Nhật Bản đang có những phản ứng khác nhau trước thông báo giảm giá tháng 11 xuống 3.000 Yên/tấn (28 USD/tấn) của công ty Tokyo Steel Manufacturing.
Giá thép dầm hình H cỡ lớn trên thị trường Tokyo Steel hiện tại là 82.000-83.000 Yên/tấn (766-776 USD/tấn), tăng 1.000 Yên/tấn so với tháng 9 trong khi thép hình có kích thước 6x50mm đạt mức 80.000-81.000 Yên/tấn, không đổi so với tháng trước đó
Trong khi đó, giá thị trường hiện tại của thép cây cỡ cơ bản 15-25mm là 65.000-66.000 Yên/tấn (606-616 USD/tấn) và tại Osaka là 62.000-63.000 Yên/tấn.
Hàn Quốc
Sản lượng thép dầm hình H nhập khẩu vào Hàn Quốc trong tháng 9 đã chạm mức thấp nhất năm nay, chỉ còn 39.200 tấn, giảm 39% so với cùng kỳ năm ngoái và 22% so với tháng 8.
Trong khi đó, nhập khẩu HRC Hàn Quốc chạm mốc cao trong tháng 9. Trung bình giá HRC nhập khẩu tháng 9 đã giảm 7 USD/tấn so với tháng 8, còn 572 USD/tấn CFR trong khi giá nhập khẩu từ Trung Quốc tăng nhẹ thêm 6 USD/tấn so với tháng 8, lên 559 USD/tấn CFR.
Đài Loan
Nhà máy Feng Hsin Iron & Steel Đài Loan đã giữ nguyên giá niêm yết thép cây chịu lực trong tuần này nhờ sức mua cải thiện và tin rằng giá phế đã chạm đáy.
Giá thép cây 13mm của Feng Hsin vẫn ổn định tại mức 16.900 Đài tệ/tấn (556 USD/tấn) xuất xưởng Cao Trung kể từ ngày 20/10. Feng Hsin được xem là người thiếp lập giá cho thị trường nội địa.
Như vậy, tính trong cả tháng qua, Feng Hsin đã cắt giảm tổng cộng 1.000 Đài tệ/tấn dựa vào giá phế toàn cầu giảm và sản lượng thép cây tăng tại Đài Loan theo sau sự chấm dứt thời điểm sản xuất cao trong hè.