Mỹ
Thị trường thép cuộn Mỹ suy yếu trong tuần này do giá phế vụn nội địa giảm cộng với tiêu thụ chậm chạp. Giá HRC cho các đơn hàng dưới 500 tấn ở mức 390 USD/tấn còn trên 500 tấn và hơn 1.000 tấn đạt mức 380 USD/tấn.
Trong khi đó, giá chào nhập khẩu CRC và HRC tới Mỹ giảm trong ngày đầu tuần do giá chào cạnh tranh từ Việt Nam gây áp lực cho thị trường trong khi sức mua vẫn yếu ớt. Giá chào CRC Việt Nam tiếp tục giảm xuống mức hết sức cạnh tranh.
Giá HRC từ Việt Nam vẫn đang giảm, chỉ còn 430 USD/tấn CFR Houston . Lựa chọn tốt nhất cho CRC nhập khẩu là giá từ Thổ Nhĩ Kỳ với 460 USD/tấn đã tính phí giao hàng. Giá chào CRC Việt Nam đạt mức 436 USD/tấn CFR Houston. Trong khi đó, gía HRC Braxin đạt mức 363 USD/tấn CFR.
CIS
Các nhà máy CIS đang cố gắng giữ giá phôi thanh ở mức 265 USD/tấn FOB Biển Đen dù Trung Quốc đã tăng giá. Tuy nhiên, giá chào từ người mua Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục ở mức 255-260 USD/tấn FOB Biển Đen. Đà phục hồi giá phế tuần qua vẫn chưa tác động tới thị trường phôi thanh và dự báo giá vẫn bình ổn cho tới cuối năm.
Thổ Nhĩ Kỳ
Giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ bình ổn mặc dù thị trường thiếu vắng giao dịch. Gía xuất khẩu thép cây tối đa đạt mức 335-340 USD/tấn nhưng không có đơn hàng nào được chốt. Tuy nhiên, thị trường nội địa vẫn mạnh với giá ở mức 340-355 USD/tấn tùy thuộc vào từng khu vực.
Sau khi giảm mạnh kể từ tháng qua, giá HRC đã chạm đáy do đà giảm giá phế nhập khẩu đã suy yếu. Các nhà máy nội địa đang giữ giá tại mức 335-345 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá HRC 2-12mm đạt mức thấp 360-370 USD/tấn trong bối cảnh bất ổn giao dịch.
Trong khi đó, các chiết khấu gần đây đã thu hút sức mua trên thị trường xuất khẩu và vài nhà máy đã thành công trong việc bán các lô hàng cuối tuần qua. Họ đang chào bán HRC tại mức thấp 320-330 USD/tấn FOB tới thị trường xuất khẩu với chiết khấu 10 USD/tấn vẫn có sẵn cho các đơn hàng lớn. Các nhà máy CIS chào bán HRC tại mức 270-290 USD/tấn FOB tới các thị trường xuất khẩu bao gồm cả Thổ Nhĩ Kỳ trong tuần này.
Thị trường HDG Thổ Nhĩ Kỳ đã rơi vào trạng thái trầm lắng sâu trước bầu cử ngày 1/11 do các bất ổn chính trị và kinh tế. Do hầu hết người mua tiếp tục hoãn đơn hàng và chỉ mua đủ dùng nên giá HDG gặp áp lực giảm trở lại. Bên cạnh đó, sức mua thấp trên thị trường xuất khẩu cộng với cạnh tranh gay gắt cũng kéo giá HDG xuất khẩu giảm.
Giá chào HDG 0.5mm trong nước nhìn chung giữ nguyên tại mức 540-560 USD/tấn xuất xưởng kể từ giữa tháng 10 trong khi giá xuất khẩu ổn định ở mức thấp 530-550 USD/tấn FOB.
Châu Âu
Giá thép cuộn Châu Âu vẫn trên đà giảm do tiêu thụ thấp và niềm tin thị trường suy yếu với giá HRC tại Tây Bắc Âu đạt mức 330 Euro/tấn. Vài nhà máy lớn vẫn có thể chào bán tại mức 340 Eur/tấn nhưng các nhà máy Bắc Âu nhỏ hơn có giá gần mức 330 Euro/tấn. Giá nhập khẩu HRC cố định tại mức 300 Euro/tấn CIF Antwerp nhưng không thu hút do các nhà môi giới tiếp tục giữ hàng tồn ở mức thấp hết sức có thể.
Trong khi đó, giá nhập khẩu CRC vào EU giảm 10 Euro/tấn còn 380-390 Euro/tấn CIF Antwerp do tiêu thụ thép suy yếu và niềm tin thị trường tiếp tục lung lay kéo giá giảm tại Bắc Âu. Giá chào từ Đức và Benelux đạt mức thấp 360-380 Euro/tấn nhưng không thu hút người mua.
Nhu cầu tiêu thụ khan hiếm và áp lực cạnh tranh từ Trung Quốc cũng đang gây áp lực cho thị trường thép dài Châu Âu với nhiều nghi ngờ về giá phế phục hồi.
Tại Pháp và Benelux, giá thép cây đạt mức 365-380 Euro/tấn đã tính phí giao hàng tùy thuộc vào khối lượng đơn hàng. Nhu cầu tiêu thụ giảm đã kéo giá thép thanh thương phẩm và thép hình giảm với mức 490 Euro/tấn là giá trần cho thép hình loại 1.
Giá thép tấm EU tiếp tục giảm, mất 40 Euro/tấn trong vòng 2 tuần do giá cạnh tranh và khối lượng hàng nhập khẩu lớn đến từ Trung Quốc. Giá thép tấm Trung Quốc đạt mức 260-280 USD/tấn CIF cảng Ý, tầm 300 Euro/tấn CIF Antwerp cho thép giao tháng 1- đầu tháng 2 trong khi giá giao dịch cho thép tấm S275 tại Nam Âu đạt mức 330-340 Euro/tấn xuất xưởng và giá Bắc Âu tại mức 350-360 Euro/tấn xuất xưởng.
Nhật Bản
Tồn kho thép tấm, HRC và CRC nhập khẩu tại hai cảng lớn của Nhật là Tokyo và Osaka hồi cuối tháng 9 tăng 10.000 tấn (tức 6,4%) so với cuối tháng 8 đạt 167.000 tấn, gây áp lực cho giá.
Các nhà máy liên hợp trong nước không ưu tiên cho doanh số các loại thép thương phẩm. Giá thị trường hiện nay cho HDG dày 1mm ở Tokyo khoảng 126.000-128.000 Yên/tấn (1.041-1.058 USD/tấn).
Giá thép cây giao ngay của Hàn Quốc vẫn ở mức thấp lè tè trong tuần. Hơn thế, nhiều người dự đoán giá sẽ giảm nhẹ trong những tuần tới khi tình hình thị trường suy yếu nhanh hơn so với kỳ vọng.
Các nhà bán lẻ ở Seoul chào bán thép cây loại SD 400 đường kính 10mm với giá 570.000-580.000 Won/tấn (504-513 USD/tấn), gần như không đổi so với hai tuần trước đó.
Đài Loan
Feng Hsin Iron & Steel đã quyết định sẽ giữ nguyên giá niêm yết trong nước cho thép cây trong tuần này, vì thị trường nhìn chung vẫn ổn định. Theo đó, giá niêm yết trong nước của Feng Hsin cho thép cây đường kính chuẩn 13mm vẫn nằm ở mức 10.700 Đài tệ/tấn (330 USD/tấn) xuất xưởng Taichung.
Châu Á
Giá thép cây giao ngay ở Châu Á vẫn không đổi cùng với chào giá xuất khẩu Trung Quốc cho thép cây BS500 đường kính 16-20mm duy trì ở mức 253-255 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Tại Hong Kong, các nhà máy Trung Quốc lớn vẫn giữ chào giá của họ duy trì ở quanh mức 270 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, tương đương 257 USD/tấn FOB, phí vận chuyển tới Hong Kong là 13 USD/tấn, để tránh bị lỗ nặng hơn nữa.
Tại Singapore, thép cây giao tháng 12 được chào giá khoảng 265 USD/tấn CFR Singapore. Tuy nhiên, mức giá như vậy khó mà thu hút được người mua vì họ chỉ muốn mua với giá 260 USD/tấn hay thấp hơn.
Tương tự, giá HRC giao ngay tới Châu Á vẫn duy trì ổn định ở mức thấp kỷ lục khi các nhà máy Trung Quốc không muốn hạ chào giá xuống ngay cả khi đối mặt với đơn hàng ít ỏi. HRC SS400 3.0mm trong khoảng 262-267 USD/tấn FOB và không có giao dịch nào được nghe nói đến ở mức giá đó.
Trong khi đó, giá thép dầm hình H nhập khẩu tới Đông Á tiếp tục lao dốc. Thép dầm hình H tới khu vực này vào cuối tháng 10 là 480-490 USD/tấn CFR, so với 500-520 USD/tấn CFR của cuối tháng 9. Mức giá trung bình 485 USD/tấn CFR là thấp hơn 25 USD/tấn so với tháng trước đó. Bên cạnh sức mua èo uột, thì sự mất giá của những đồng nội tệ trong khu vực so với đôla Mỹ là lý do kéo giá thép giảm.
đang được chào giá 270-272 USD/tấn CFR Việt Nam. Tất cả đều không đổi so với ngày trước đó.
Giá giao ngay của cuộn trơn ở Châu Á tiếp tục trên đà lao dốc xoáy ốc trong tuần này. Cuộn trơn dạng lưới 6.5mm giảm 5 USD/tấn còn 265-268 USD/tấn FOB. Hai nhà máy lớn chuyên xuất khẩu ở miền bắc đã hạ chào giá xuống thêm 5 USD/tấn còn khoảng 270 USD/tấn FOB
Ấn Độ
HRC giá rẻ nhập khẩu tăng nhanh đang buộc các doanh nghiệp Ấn Độ duy trì giá bán trong nước. Gía HRC IS 2062 loại A/B 3mm không đổi ở mức 27.500-28.500 Rupees/tấn (423-438 USD/tấn) xuất xưởng. Trong khi đó, chào giá HRC SS400 dày 3mm từ Trung Quốc đã giảm 5 USD/tấn xuống còn 285 USD/tấn CFR Mumbai. Nếu tính luôn thuế hải quan 12,5% và thuế tự vệ 20% thì giá tương đương 377 USD/tấn hay 24.513 Rupees/tấn.
Nhập khẩu từ các nhà cung cấp HRC khác ở Châu Á tiếp tục được chào bán ở mức thấp hơn so với giá bán trong nước. Chào giá HRC SAE 1006 loại cán lại dày 1.2-2 mm từ Hàn Quốc khoảng 330 USD/tấn CFR Mumbai. Mức giá này tương đương với 399 USD/tấn (25.942 Rupees/tấn) trong đó thuế hải quan 1% (nhờ hiệp ước thương mại song phương) cho thép của Hàn Quốc và thuế tự vệ 20%.