Mỹ
Bước sang tuần này (21-25/10), thị trường tấm mỏng nội địa Mỹ tiếp tục bình ổn, với giá nhận định của platts đối với hai mặt hàng HRC và CRC lần lượt đạt mức 655-665 USD/tấn và 760-770 USD/tấn xuất xưởng Midwest. Tuy nhiên, sức mua cũng trầm lắng do người mua chưa chắc về xu hướng ổn định này liệu có duy trì được bền vững hay không.
Tương tự, giá tấm mỏng Mỹ nhập khẩu cũng không đổi so với tuần trước, tuy nhiên, thị trường nhập khẩu tấm mỏng Mỹ đã trở nên thu hút hơn do các nhà máy nội địa vẫn giữ giá chào bán cao. Dù vậy, Platts vẫn hạ giá nhận định đối với HRC nhập khẩu xuống 10 USD/tấn, đạt mức 580-590 USD/tấn CIF Houston và giữ CRC cố định tại mức 650-670 USD/tấn CIF Houston.
Trong khi đó, nhà máy SSAB Mỹ đã thông báo tăng giá thép tấm thêm 20 USD/tấn do nhận thấy các mức giá tăng trước đó đã được thị trường chấp nhận. Như vậy, trong tháng 10 này, SSAB đã tăng giá thép tấm được tổng cộng 50 NDT/tấn, cùng mức với chính sách giá mới của nhà máy ArcelorMittal hồi đầu tháng. Mức giá nhận định của Platts đối với thép tấm thương phẩm A36 Mỹ cũng đã tăng 10 USD/tấn, đạt mức 700-720 USD/tấn xuất xưởng nhà máy Đông Nam Mỹ.
Tương tự, vào đầu tuần này (21/10), nhà máy Nucor cũng đã thông báo tăng giá cuộn trơn thêm 20 USD/tấn. Tuy nhiên, quyết định này đã không được bất kỳ nhà máy nào hưởng ứng do nhu cầu tiêu thụ vẫn suy yếu.
Trong khi đó, thị trường xuất khẩu phế Mỹ tuần này đã sôi nổi hẳn lên do nhu cầu tiêu thụ phế Mỹ tại Đông Nam Á tăng. Trong tuần, đã có một nhà máy thép Việt Nam đặt mua đơn hàng lớn phế HMS I/II (80:20) từ Mỹ tại mức giá 384 USD/tấn CFR. Tại Đài Loan, các nhà máy cung cấp phế Mỹ lớn đang chào bán tại mức giá 362-364 USD/tấn CFR. Các nhà nhập khẩu Đài Loan cũng đã đưa ra giá chào mua mạnh hơn, đạt mức 355-356 USD/tấn CFR.
CIS
Trong tuần này, giá phôi thanh CIS tăng do nhận được hỗ trợ từ sức mua cải thiện từ Ả Rập Saudi và Ai Cập sau Lễ Eid. Một số khách hàng tại Ai Cập đã mua phôi thanh CIS tại mức giá 530 USD/tấn CIF theo điều khoản thanh toán L/C trả ngay. Bên cạnh đó, một nhà nhập khẩu ở Ả Rập Saudi cũng đã đặt mua lô hàng lớn với giá 535 USD/tấn CFR, tăng 5 USD/tấn so với tuần trước trong khi các chào giá từ CIS hiện đạt mức 540 USD/tấn CFR. Platts cũng đã tăng giá phôi thanh CIS thêm 1.5 USD/tấn, đạt mức 503.50 USD/tấn FOB Biển Đen.
Được biết, một số nhà máy ở khu vực CIS cũng đã tạm ngưng sản xuất, cụ thể REMZ ở Rostov sẽ ngưng hoạt động trong tháng 11, và nhà máy Metinvest ở Ukraina cũng vậy. Do đó sản lượng phôi thanh được cho là sẽ giảm ít nhất khoảng 10.000 tấn, giúp hỗ trợ giá tiếp tục tăng.
Thổ Nhĩ Kỳ
Thị trường Thổ Nhĩ Kỳ tuần này nhìn chung diễn ra khá suôn sẻ khi mà giá các mặt hàng thép dẹt và thép dài nội địa nhìn chung đều tăng ngoại trừ các sản phẩm thép mạ do vấp phải áp lực từ nguồn cung quá mức mặc dù giá vẫn không đổi.
Cụ thể, trong tuần này, các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá chào bán dựa trên giá phế tăng, tuy nhiên, mức giá mới này vẫn chưa được thị trường chấp nhận.
So với giá bán 575-577 USD/tấn FOB cảng Thổ Nhĩ Kỳ trước Lễ Eid, giá chào hiện tại đã tăng 15 USD/tấn. Trong khi đó, nhiều thương nhân đang nhận được chào bán lô hàng giao cuối tháng 11/12 tại mức giá 590 USD/tấn FOB.
Platts vẫn duy trì mức giá nhận định không đổi đối với thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tại mức giá 585 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng tăng thêm 7.50 USD/tấn so với tuần trước. Điều này đồng nghĩa với việc mức chênh lệch giữa giá phế nhập khẩu và thép cây xuất khẩu đã thu hẹp lại còn 198.50 USD/tấn, dưới mức dự báo.
Các nhà máy thép lớn Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã tăng giá thu mua phế trong tuần này do giá phế nhập khẩu tăng. Chẳng hạn như nhà máy thép Colakoglu đã tăng giá thu mua phế DKP thêm 20 TRY/tấn trong ngày 24/10, đạt mức 740 TRY/tấn (374 USD/tấn), Asil Celik tăng giá mua thêm 10 TRY/tấn, lên mức 740 TRY/tấn, Erdemir thêm 25 TRY/tấn, đạt mức 775 TRY/tấn (392 USD/tấn). Tương tự, giá phế tàu Thổ Nhĩ kỳ cũng đã tăng thêm 5-10 USD/tấn.
Trong khi đó, giá HRC nội địa nước này vẫn bình ổn dựa trên hỗ trợ từ nhu cầu tiêu thụ và tâm lý thị trường cải thiện sau Lễ Eid. Các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ đang cố gắng duy trì bình ổn giá chào tại mức giá 585-600 USD/tấn xuất xưởng, trong khi các thương nhân trong nước vẫn đang hướng tới thị trường xuất khẩu dựa vào sự tăng giá của đồng Libra đối với dolls. Gía chào xuất khẩu HRC từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ hiện đã ở mức thấp 565 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, giá chào CRC từ các nhà máy Thổ Nhĩ kỳ vẫn đạt mức 690-710 USD/tấn xuất xưởng.
Tuy nhiên, mặt hàng thép mạ của Thổ Nhĩ Kỳ đang trong áp lực giảm giá do nguồn cung tăng. Các nhà máy trong nước hiện đang chào bán HDG 0.5mm tại mức giá 790-810 USD/tấn xuất xưởng, và HDG 1mm đạt mức 750-770 USD/tấn xuất xưởng, không đổi so với trước Lễ EID. Trong khi đó, PPGI 9002 0.1m vẫn đạt mức 980-1.020 USD/tấn xuất xưởng.
Châu Âu
Giá thép công cụ Châu Âu tuần này vẫn không đổi do nhu cầu tiêu thụ trầm lắng. Hiện tại, gía thép thanh tròn cán nóng C45 50-150mm vẫn đạt mức 580-600 Euro/tấn giao tháng 10, duy trì đà bình ổn 5 tháng liên tiếp.
Tương tự, giá thép tấm hạng nặng tại thị trường Châu Âu hiện cũng đang ổn định mặc dù các nhà máy có thể cung cấp mức chiết khấu nhỏ đẻ kích cầu. Giá thép tấm thương phẩm hiện bình ổn ở mức 500-520 Euro/tấn xuất xưởng Tây Bắc Âu, thấp hơn khu vực Trung Âu 20 Euro/tấn. Trong khi đó, mức giá nhận định hàng ngày của Platts đối với thép tấm Châu Âu đã giảm 3 Euro/tấn, đạt mức 510 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr và 442 Euro/tấn CIF Antwerp.
Giá HRC giao ngay tại thị trường nội địa Ý tuần này đã giảm 15-20 Euro/tấn so với tuần trước do nhu cầu tiêu thụ chậm. Hiện tại, HRC được chào bán ở mức 430 Euro/tấn xuất xưởng sau khi các nhà máy duy trì giá bình ổn ở mức 445-450 Euro/tấn trong mấy tuần qua, tuy nhiên, đã không có đơn hàng lớn nào được chốt. Trong khi đó, đồng Euro mạnh hơn đã khuyến khích các nhà nhập khẩu nhập hàng vào, qua đó, các nhà sản xuất địa phương trong nước buộc phải hạ giá chào xuống để kích cầu.
Một vài nhà sản xuất đang chào bán tại mức 435-440 Euro/tấn giao hàng thời hạn ngắn. Hiện tại, đã có số ít người mua trở lại thị trường, tuy nhiên, hầu như các thành viên thị trường đều tin rằng giá vẫn có khả năng giảm nữa. Trong khi đó, giá CRC cũng đã giảm so với tuần trước, đạt mức 505-510 Euro/tấn. Tương tự, giá HDG tại thị trường nội địa Ý cũng đã giảm 10 USD/tấn so với tuần trước, đạt mức 485-495 Euro/tấn xuất xưởng. Gía chào từ Trung Quốc đối với mặt hàng này hiện đạt mức 615-620 USD/tấn FOB.
Tương tự, giá thép cuộn không mạ tại Bắc và Nam Âu cũng đã giảm mặc dù giá HDG Châu Âu đã tăng 1-2%. Tại Bắc Âu, giá trung bình HRC hàng ngày đã giảm 4 Euro/tấn so với tuần trước. Tương tự, giá CRC cũng đã giảm 1.5% trong khi HDG tăng 7 Euro/tấn, đạt mức 570 Euro/tấn (775 USD/tấn). Tuy nhiên, gía tham khảo đối với thép tấm Bắc Âu xuất xưởng tăng 1 Euro/tấn, đạt mức 522 Euro/tấn (710 USD/tấn).
Gía trung bình hàng ngày đối với HRC và CRC tại Nam Âu đã giảm lần lượt 5 Euro/tấn và 7 Euro/tấn xuất xưởng so với tuần trước, đạt mức 517 Euro/tấn (703 USD/tấn). Trong khi đó, giá HDG tăng 9 Euro/tấn. Gía thép tấm Nam Âu cũng đã giảm 3 Euro/tấn.
Nhật Bản
Tuần này tại thị trường Nhật Bản, trong khi giá thép hình vẫn duy trì tại mức cũ thì giá thép tấm tăng cao.
Vào đầu tuần, Tokyo Steel Manufacturing thông báo giữa ngyên giá của hầu hết các loại thép hình trừ thép hình vuông rỗng (square hollow sections) là tăng thêm 2.000 Yên/tấn (20 USD/tấn) cho những hợp đồng tháng 11 do nhu cầu tiêu thụ thép xây dựng đang bị hạn chế bởi các công trình bị trì hoãn vì thiếu nhân công. Theo đó, thép hình 200x200x16mm từ nhà máy này có giá mới là 76.000 Yên/tấn, trong khi đó thép dầm hình H loại SS400 cỡ lớn vẫn duy trì tại 76.000 Yên/tấn và HRC SPHC 1.7-22mm giữ nguyên với giá không đổi 64.000 Yên/tấn.
Tại thị trường thép tấm, ngày 23/10, JFE Steel cho biết sẽ tăng giá giao ngay của tấm dày thêm 5.000 Yên/tấn (51 USD/tấn) đối với hàng sản xuất tháng 10 do nguồn cung hạn chế trong khi nhu cầu đang tăng cao. JFE không tiết lộ giá niêm yết cụ thể, tuy nhiên, hiện nay, tại Tokyo, giá tấm SS400 (1.524 x 3.480mm) dày 19mm là 83.000-85.000 Yên/tấn (852-873 USD/tấn); còn đối với tấm không đạt chuẩn chất lượng của Nhật được bán với giá 79.000-81.000 Yên/tấn; đều tăng 2.000 Yên/tấn (21 USD/tấn) so với giá hồi đầu tháng 10.
Hàn Quốc
Tuần này, tại thị trường nội địa, giá thép cây giao ngay Hàn Quốc tiếp tục duy trì đà giảm trong suốt tháng này do thương lượng giá giữa nhà sản xuất va các công ty xây dựng tiếp tục bế tắc, khiến xu hướng thị trường không rõ ràng. Giá bán lẻ ngày 24/10 đối với thép cây SD400 10mmsản xuất trong nước chốt tại 670.000-680.000 Won/tấn (635-644 USD/tấn) tại Seoul, duy trì kể từ đầu tháng tới nay.
Đài Loan
Tại thị trường trong nước, Feng Hsin Iron & Steel đã giữ nguyên giá bán niêm yết của thép cây do giá phế tăng và nhu cầu suy giảm. Theo đó, thép cây cỡ cơ bản của nhà máy này hôm thứ hai vẫn duy trì tại 17.800 Đài tệ/tấn (605 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung.
Đông Nam Á
Sau nhiều tuần trì trệ, thị trường tiêu thụ phôi nhập khẩu sang khu vực Đông Nam Á bắt đầu phục hồi với giá giao dịch chốt trên 540 USD/tấn cfr do giá phế tăng và nhu cầu tái bổ sung hàng tồn kho đang ở mức thấp. Trước đó, các giao dịch phôi tại khu vực này chỉ chốt quanh mức 535 USD/tấn cfr.
Tại Indonesia, một lô hàng 220.000 tấn phôi thanh, chủ yếu loại 120mm vuông, còn lại là 130 mm vuông, xuất xứ Đài Loan, được chốt tại mức 542 USD/tấn cfr. Tại Phillipines, giá giao dịch phôi Hàn Quốc đạt mức 541 USD/tấn cfr. Tại Thái Lan, giá phôi vẫn chưa tăng so với các nước khác trong khu vực do nhu cầu tiêu thụ thép cây sản xuất trong nước vẫn còn yếu, giá chốt giao dịch phôi nguồn gốc Nga là 530 USD/tấn cfr, tuy nhiên, nhiều khả năng
Trung Đông
Thị trường thép vẫn ảm đạm mặc dù mùa lễ hội đã kết thúc, kéo theo giá thép vẫn không thể tăng. Tại thị trường thép cuộn, sức tiêu thụ HRC vẫn không cao khiến giá nhập khẩu không thể tăng; giá chào bán HRC loại SS400/St37 nguốc gốc Ai Cập là 575 USD/tấn FOB tương đương 595 USD/tấn FOB CFR Jeddah. Còn đối với loại cực mỏng (1,2mm), giá chào bán từ Trung Quốc là 625 USD/tấn CFR Dammam, giá chào từ Nhật là 635 USD/tấn CFR, từ Đài Loan là 630-640 USD/tấn CFR, từ Hàn Quốc là 650 USD/tấn CFR từ Hàn Quốc. Tuy nhiên hoạt động giao dịch khá trầm lắng do hàng tồn kho còn đủ để sử dụng. Còn nhà sản xuất SABIC trong khu vực vẫn chưa quyết định giá niêm yết cho hàng giao tháng 01/2014, tuy vậy, giá có thể duy trì từ mức giá của tháng trước là 620-640 USD/tấn gồm phí vận chuyển.
Tại UAE, giá thép cây sản xuất trong nước giảm do chịu sự cạnh tranh gay gắt của thép cây nhập khẩu nguồn gốc Thổ Nhĩ Kỳ và nhu cầu suy yếu. Emirates Steel giảm giá thép cây tháng 11 còn 2.185 AED/tấn (595 USD/tấn) xuất xưởng Abu Dhabi, giảm 65 AED/tấn (18 USD/tấn) so với giá của tháng trước đó. Nhà cán lại Conares, cũng giảm giá thép cây tháng 11 xuống còn 2.170 tấn gồm phí vận chuyển tới Dubai.