Nhật Bản
Tuần này, tiêu thụ thép cuộn tại thị trường Nhật tăng mạnh trong khi nguồn cung từ các nhà máy lớn không đủ cho nhu cầu nội địa; tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất tiếp tục nâng giá thép với mục tiêu 65.000 Yên/tấn (630 USD/tấn) trước cuối năm nay. Cụ thể vào ngày 07/11, nhà sản xuất JFE Steel Corporation đã thông báo nâng giá bán giao ngay đối với HRC, CRC và HDG thêm 3.000-3.500 Yên/tấn (30-51 USD/tấn) cho hàng giao tháng 10 đến người dùng trực tiếp hai các đơn vị sản xuất trung gian. Được biết giá giao ngay của HRC SS400 dày 3mm sản xuất từ các nhà máy lớn hiện vào khoảng 63.000 Yên/tấn.
Đài Loan
Thị trường thép Đài Loan tuần này tương đối ổn khi hầu hết các nhà sản xuất lớn trong nước đều duy trì giá không đổi.
Vào đầu tuần, tại thị trường thép cây, Feng Hsin Iron & Steel, nhà sản xuất thép cây hàng đầu của nước này thông báo giữ giá niêm yếtthép cây trong nướckhông đổi tuần thứ ba liên tiếp do giá phế và lượng đơn hàng ổn định. Cu thể giá thép cây cỡ cơ bản của Feng Hsin duy trì tại mức 17.800 Đài tệ/tấn (606 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung.Cùng ngày, Feng Hsin cũng cho biết giữ giá thu mua phế HMS I/II (80:20) tại 10.300 Đài tệ/tấn.
Tại thị trường thép không gỉ, Tang Eng Iron Works cho hay tiếp tục duy trì giá trong nước và xuất khẩu với cuộn cán nóng và cán nguội không gỉ và tấm mỏng không gỉ cho đơn hàng tháng 11 với lí do giá niken thay đồi không đáng kể. Theo đó, giá niêm yết trong nước của HRC 304 2mm và CRC 2B 2mm lần lượt là 73.000 NDT/tấn (2.480 USD/tấn) và 77.500 NDT/tấn. Tuy nhiên giá xuất khẩu không được tiết lộ. Trong khi đó đối thủ của nhà máy này, nhà sản xuất Yieh United Steel Corp (Yusco) đã cho biết nâng giá xuất khẩu các sản phẩm tương tự cho hàng giao tháng 12 thêm 30-50 USD/tấn, nhưng duy trì giá nội địa không đổi.
Ấn Độ
Tuần này thị trường tiêu thụ thép cuộn cán nóng Ấn Độ vẫn tiếp tục suy yếu dẫn theo giá của mặt hàng này vẫn duy trì tại mức giá từ đầu tháng 10 đến giờ do nhà sản xuất cương quyết không hạ giá bán. Hiện tại, giá giao dịch bình quân trong nước của HRC A/B loại IS 2062 dày từ 3mm trở lên tầm 36.500-37.500 Rupee/tấn xuất xưởng; tương đương giá nhập khẩu 540-565 USD/tấn CFR Mumbai bao gồm thuế nhập khẩu 7,5%.
Tại thị trường xuất khẩu, HRC của các nhà sản xuất Ấn Độ là mặt hạnh cạnh tranh gay gắt với hàng Trung Quốc chào bán sang thị trường Đông Nam Á; tuy nhiên giá bán xuất khẩu không được các nhà sản xuất tiết lộ.
Đông Nam Á
Tại thị trường tiêu thụ HRC Việt Nam, giá nhập khẩu cuộn cán nóng của Trung Quốc đã phục hồi trong tuần này sau khi rớt giá xuống mức thấp hồi nữa cuối tháng 10. Theo đó, giá chào bán HRC xuất xứ Trung Quốc đã tăng tổng cộng 10 USD/tấn từ ngày 01/11-06/11, còn giá giao dịch thực tế thì tăng khoảng 5 USD/tấn. Cụ thể, giá chào bán phổ biến hiện nay cho HRC SS400B 3-12mm tầm 35-540 USD/tấn CFR tăng so với mức 525-530 USD/tấn CFR của tuần trước; còn giá chào bán của HRC SAE 1006 dày 2mm trở lên cũng được nân lên mức 560 USD/tấn CFR.
Trung Đông
Tuần này, tại Ả Rập Saudi, nhu cầu tiêu thụ HRC vẫn tiếp tục suy yếu do chính phủ tiến hành truy quét người nhập cư bất hợp phát nhưng lại không có các chính sách lao động cụ thể khiến nguồn lao động bị thiếu hụt trầm trọng kéo theo hoạt động sản xuất công nghiệp bị đình trệ; do đó giá chào bán trong nước và ngoài nước vẫn duy trì không đổi trong suốt gần 3 tuần qua.
Giá chào từ Trung Quốc cho HRC SS400/St37 dày 2mmvẫn chốt tại 625 USD/tấn CFR Dammam, còn giá chào bán từ Nhật bản cho sản phẩm tương tự là 635 USD/tấn CFR, từ Đài Loan là 630 USD/tấn CFR, 640 USD/tấn CFR từ Nam Phi và 650 USD/tấn CFR từ Hàn Quốc trong khi Ấn Độ vẫn đang đứng ngoài thị trường. Riêng chào giá từ Ai Cập choHRC cỡ cơ bản được nâng lên mức 600 USD/tấn CFR Jeddah (660 USD/tấn đối với loại 1.2mm), tuy can hơn hàng của các nước Đông Á, nhưng do khong phải chịu mức thuế nhập khẩu 5% cho nên giá vẫn tốt hơn.
Nhà sản xuất trong nước, SABIC vẫn đang niêm yết giá chính thức tại 620-640 USD/tấn gồm phí vận chuyển nhưng có thể thương lượng giảm xuống 10 USD/tấn.
Mỹ
Sau khi duy trì gần như ổn định kể từ đầu tuần, tiến dần về cuối tuần, giá tấm mỏng mỹ đã xuất hiện xu hướng tăng lên do các nhà máy vẫn giữ giá chào bán cao trong khi người mua cũng nỗ lực mua hàng do lo ngại giá sẽ tăng thêm nữa. Trong khi nhà máy Severstal tăng giá hai mặt hàng này thêm 20 USD/tấn thì AK Steel cũng tăng thêm 30 USD/tấn. Tuy nhiên, Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC ở mức 660-670 USD/tấn và 770-780 USD/tấn.
Trong tuần này, đã có 3 nhà máy Mỹ thông báo tăng giá các mặt hàng thép dài, gồm Gerdau Long Steel, Steel Dynamics Inc.'s Roanoke Bar Division và Nucor. Trong khi Gerdau tăng giá tất cả các mặt hàng thép cây, thép dầm và thép thanh thương phẩm thêm 20 USD/tấn thì Nucor chỉ tăng giá thép cây thêm 10 USD/tấn và thép thanh thương phẩm thêm 20 USD/tấn.
Nhà máy Nucor cũng đã tăng giá thép tấm thêm 40 USD/tấn ngắn do nhận thấy thị trường khởi sắc và hưởng ứng theo các làn sóng tăng giá trước đó. Gía Platts đối với thép tấm thương phẩm A36 đã tăng thêm 10 USD/tấn, đạt mức 730-750 USD/tấn xuất xưởng Đông Nam Mỹ.
Trong khi đó, giá phế Mỹ tháng 11 cũng đã tăng 20-30 USD/tấn dài do sức mua trên thị trường sôi nổi. Platts vẫn duy trì giá phế vụn tại mức 375-380 USD/tấn dài xuất xưởng Midwest.
Thổ Nhĩ Kỳ
Trong bối cảnh giá phế nội địa lẫn nhập khẩu tăng cũng như sự suy yếu của đồng Lira, các nhà máy Thổ Nhĩ kỳ đã thông báo nâng giá thép cây và phôi thanh. Tiêu biểu là nhà máy thép dài tích hợp Kardemir Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá thép thanh tròn nội địa thêm 25 TRY/tấn so với giá niêm yết trước, đạt mức 1.223 TRY/tấn (602 USD/tấn) xuất xưởng. Giá thép cây 12mm của nhà máy này cũng tăng thêm 34 TRY/tấn, đạt mức 1.225 TRY/tấn (603 USD/tấn) xuất xưởng.
Tương tự, Kardemir cũng tăng giá phôi thanh và Bloom thêm 15-20 USD/tấn, đạt mức 522-537 USD/tấn xuất xưởng chưa tính 18% VAT.
Trong khi đó, nhà máy Icdas tăng giá thép thanh nội địa thêm 20 TRY/tấn. Gía chào bán thép cây 12-32 mm từ nhà máy này hiện đạt mức 1.450 TRY/tấn xuất xưởng. Gía thép cây 8mm và 10mm do Icadas sản xuất cũng tăng lên mức lần lượt 1.470 TRY/tấn xuất xưởng (724 USD/tấn) và 1.460 TRY/tấn (719 USD/tấn) đã gồm 18% VAT.
Nhà máy này cũng tăng giá cuộn trơn thêm 20 TRY/tấn, đạt mức 1.460-1.525 TRY/tấn xuất xưởng (719-751 USD/tấn) đã gồm 18% VAT.
Trong khi đó, dựa vào việc đã nhận đủ các đơn hàng tháng 12, các nhà máy HRC Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá chào bán thêm HRC thêm 5 USD/tấn, đạt mức 585-600 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào HRC xuất khẩu tăng lên mức 565-570 USD/tấn.
Nhu cầu tiêu thụ thép cuộn không gỉ Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang từng bước được cải thiện sau Lễ Eid giữa tháng 10, tuy nhiên, giá nhập khẩu vẫn ổn định. Dù vậy, các thành viên thị trường dự báo rằng giá sẽ tăng lên trong vài tuần tới, do Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng đánh thuế lên hàng nhập khẩu với mức tăng từ 2% lên 8% từ ngày 30/10 trong bối cảnh giá niken tăng.
Giá CRC không gỉ 304 2mm giao tháng 12 Thổ Nhĩ Kỳ hiện được chào bán tại mức 2.550 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ từ các nhà sản xuát Châu Âu trong khi giá bán từ Viễn Đông đạt mức 2.400-2.450 USD/tấn CFR. Gía chào bán từ Đài Loan và Trung Quốc hiện lần lượt đạt mức 2.300-2.350 USD/tấn CFR chưa tính 8% VAT.
CIS
Mặc dù trong 3 tuần qua, giá phôi thanh và phế CIS đã tăng thêm lần lượt 10 USD/tấn và 15 USD/tấn và vẫn đang trên đà tăng, thế nhưng, do sức cầu vẫn yếu đã buộc các nhà sản xuất cuộn trơn chọn vị trí an toàn giữ nguyên giá chào bán,
Hiện tại, giá chào bán cuộn trơn dạng lưới 5.5-12.5mm tại đạt mức 570-575 USD/tấn FOB Biển Đen, không đổi so với tháng trước, mặc dù các đơn hàng cuộn trơn Nga đang được chốt ở mức thấp 565 USD/tấn FOB tháng này.
Các nhà sản xuất CIS cũng đã bắt đầu tung ra giá chào mới cho lô hàng giao tháng 1 tới các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ. Các giá chào mới từ các nhà máy Ukraina hiện đạt mức 535-545 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ kỳ, trong khi giá chào từ Nga tăng ít nhất là 15 USD/tấn.
Trong khi đó, giá chào CRC từ Nga vẫn ở mức 690-710 USD/tấn xuất xưởng, giá HDG 0.5mm đạt mức 790-810 USD/tấn xuất xưởng và PPGI 9002 0.5mm vẫn ở mức 990-1.010 USD/tấn xuất xưởng thanh toán trong vòng 30 ngày.
Tại thị trường thép cây nội địa Nga, giá đang trên đà hạ do áp lực từ nguồn cung tăng. Tại thị trường Maxcova, các nhà sản xuất CIS đang chào bán thép cây 12mm tháng 11 với giá 22.000-22.100 Rub/tấn (680-682 USD/tấn) đã gồm phí vận chuyển và VAT . Trong khi đó, giá thép cây 14mm đã giảm xuống mức 21.600-21.700 Rub/tấn (660-670 USD/tấn).
Tuy nhiên, như đã đề cập trước đó, giá phôi thanh xuất khẩu của CIS vẫn đang tăng. Giá bán phôi thanh xuất xứ từ Nga và Ukraina trong tuần này tới Ai đạt mức 535-538 USD/tấn CIF hay 510-515 USD/tấn FOB Biển Đen.
Platts cũng đã tăng giá phôi thanh thêm 0.5 USD/tấn, đạt mức 510 USD/tấn FOB Biển.
Bên cạnh đó, thị trường thép cuộn Biển Đen dường như đã khởi sắc trở lại với hỗ trợ từ giá quặng tăng cũng như thị trường thép nội địa Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Quốc đang ấm dần lên. Theo dự báo, giá các đơn hàng mới sẽ tăng thêm 10 Euro/tấn, dẫn tới giá trung bình tại nhà máy Metinvest là 525 Euro/tấn và MMK là 535 Euro/tấn FOB Biển Đen.
Platts đã tăng giá xuất khẩu thép cuộn Biển Đen thêm 2.5 Euro/tấn, đạt mức 517.5 Euro/tấn FOB Biển Đen, trong khi giá CRC vẫn ổn dịnh tại mức 598 Euro/tấn .
Châu Âu
Khác với xu hướng khởi sắc tại các khu vực khác, trong tuần này, thị trường Châu Âu trở nên trầm lắng với giá các mặt hàng thép nhìn chung đều giảm do nhu cầu tiêu thụ thấp.
Hiện tại, giá thép ống đúc Châu Âu đã giảm điểm chiết khấu so với đầu tháng 10 với các mức chiết khấu tại Nam Âu đạt khoảng 36-36.5 điểm trong khi tại Bắc Âu là 35 điểm.
Giá Platts đối với thép ống đúc S235 Mỹ trong tuần này đạt mức 550-565 Euro/tấn.
Tương tự, trong nửa tháng qua, giá thép hình Châu Âu cũng đã giảm 10 Euro/tấn do nhu cầu tiêu thụ vẫn suy yếu. Tại Bắc Mỹ, giá thép hình loại 1 giao tháng 11-12 hiện đạt mức 540-550 Euro/tấn, trong khi tại Nam Âu, giá đạt mức 530-540 Euro/tấn xuất xưởng.
Theo đánh giá, giá CRC nội địa Bắc Âu dường như đã chạm mức đáy sau khi giá Platts cao hơn mức thấp nhất 3 năm hồi giữa tháng 7 chỉ 1.5 Euro/tấn . Dù vậy, các nguồn tin vẫn dự báo rằng giá các đơn hàng giao Qúy 1/2014 sẽ được cải thiện.
Platts đã hạ giá nhận định CRC thêm 1 Euro/tấn, xuống mức 519 Euro/tấn xuất xưởng.
Tuy nhiên, động lực giá phế tăng thêm 15 Euro/tấn đã thúc đẩy các nhà sản xuất thép cây Ý tăng giá chào bán, tuy nhiên, vẫn gặp khó khăn trong việc chốt các đơn hàng thiếu cầu. Do đó, một số nhà máy vẫn đang bán tại mức 230 Euro/tấn.
Tương tự, các nhà máy cuộn trơn cũng đang đối mặt với sự kháng cự từ người mua tại mức giá mới do nhu nhu cầu tiêu thụ mặt hàng này thậm chí còn tệ hơn cả thép cây. Hiện tại, giá cuộn trơn dạng kéo đang ổn định tại mức 480-490 Euro/tấn xuất xưởng trong khi cuộn trơn dạng lưới đạt mức 470-475 Euro/tấn.