Mỹ
Trong bối cảnh suy yếu của giá nguyên liệu thô thế giới, giá phế nội địa lẫn xuất khẩu Mỹ đều giảm.
Giá xuất khẩu phế khối lượng nhỏ Bờ Tây Mỹ đã giảm trong tuần này, giảm lần thứ hai trong vòng 3 tuần do giá quặng giảm vẫn làm chán nản tâm lý thị trường Châu Á.
Hồi đầu tuần này, các thương nhân Mỹ chào bán phế khối lượng nhỏ sang Đài Loan với giá 290 USD/tấn CFR, tuy nhiên, giá chào bán về cuối tuần chỉ ở mức 280-285 USD/tấn CFR.
Tại thị trường thép cuộn Mỹ, cả hai bên mua và bán vẫn đang mắc kẹt trong trò chơi thử thách nhau do các nhà máy tăng giá chào bán bất chấp đơn hàng ít ỏi và người mua tiếp tục trì hoãn các đơn hàng và yêu cầu chiết khấu. Các nhà máy đã tăng giá thêm 20 USD/tấn, song người mua vẫn đang tiếp tục tìm kiếm giá HRC tại mức 640 USD/tấn.
Trong khi đó, tình trạng hàng nhập khẩu quá mức trên thị trường thép tấm Mỹ tiếp tục gây áp lực cho giá trong nước sau khi đã cận kề mức kỷ lục trong tháng 9 và 10.
Platts định giá thép tấm thương phẩm A36 tại mức 810-825 USD/tấn xuất xưởng Đông nam Mỹ, giảm từ mức 825-835 USD/tấn tuần trước. Gía chào nhập khẩu đạt mức thấp 680 USD/tấn CIF Houston đối với nguyên liệu nhập từ Nga với phần lớn các chào giá dao động trong khoảng 720-740 USD/tấn CIF Houston. Bên cạnh đó, cũng có các chào giá khác từ Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Ý.
Tuy nhiên, giá thép cây tại Đông Bắc Mỹ vẫn bình ổn và mạnh, thậm chí với áp lực giảm giá từ hàng nhập khẩu gía thấp trong Q1 /2015.
Giá thép cây tại Northeast vẫn ở mức 710 USD/tấn xuất xưởng kể từ tháng 8 trong khi giá từ Midwest đạt mức 660 USD/tấn xuất xưởng và thép cây Southeast là 640 USD/tấn xuất xưởng.
Bối cảnh địa chính trị bất ổn, nhu cầu tiêu thụ thấp và áp lực cạnh tranh mạnh mẽ từ hàng nhập khẩu giá rẻ Trung Quốc cộng với đà suy yếu của giá nguyên liệu thô đã gia tăng áp lực hơn nữa leent hị trường Biển Đen tuần này. Nhận thấy tình hình thị trường suy yếu, người mua liên tục tạo áp lực đòi giảm giá và chiết khấu buộc lòng các nhà máy phải hạ giá chào bán để tìm kiếm đơn hàng.
Một thương nhân xác nhận đã đặt mua phôi thanh Belarus tại mức 434 USD/tấn FOB Odessa thanh toán trước toàn bộ trong khi giá chào mua tiếp tục ở mức 430-440 USD/tấn FOB Biển Đen không thanh toán trước. Như vậy, mức giá chào mua phổ biến trên thị trường Biển Đen hiện tại là 430-440 USD/tấn FOB Biển Đen.
Các nhà máy vẫn chào bán ở mức 445-450 USD/tấn FOB Biển Đen không thanh toán trước, tức 465 USD/tấn CIF Aliaga, tuy nhiên, giá này quá cao đối với người mua vào thời điểm này.
Tương tự, giá phôi phiến CIS tiếp tục giảm với rất ít giao dịch diễn ra do các nhà cán lại vẫn tin rằng giá sẽ còn giảm nữa. Gía phôi phiến hiện được các nhà máy CIS chào bán tại mức 460-465 USD/tấn FOB Biển Đen giao cuối tháng 12-1, giảm 10 USD/tấn so với cách đây nửa tháng với người mua Thổ Nhĩ Kỳ dự báo giá sẽ chạm mức thấp 450 USD/tấn.
Tình trạng bất đồng giá giữa người bán và người mua thậm chí còn tệ hơn ở Đông Nam Á. Ở nhiều thị trường Đông Nam Á, người mua chuẩn bị chào giá ở mức 450-454 USD/tấn CIF trong khi các nhà máy giữ giá chào ở mức 480-485 USD/tấn CIF. Tâm lý chính trên thị trường phôi phiến lúc này là sự không chắc chắn. Gía phế và quặng sắt đều đã giảm, thôi thúc người mua giảm giá chào. Nhu cầu tiêu thụ cuối trầm lắng nên giá phôi phiến cũng suy yếu.
Giá xuất khẩu thép cuộn Biển Đen đã giảm xuống mức thấp do tỷ giá đồng Rub thấp và áp lực tăng từ Trung Quốc trong mấy tháng qua.
Một nhà máy Nga đã giảm giá chào bán thép cuộn xuống 10 USD/tấn, còn 485 USD/tấn FOB Biển Đen thanh toán trước. Tuy nhiên, các thương nhân không quan tâm đặt mua hàng trở lại do dự báo giá giảm trong thời gian tới.
Giá chào HRC Ukraina tới Thổ Nhĩ Kỳ hồi đầu tuần này đạt mức 500 USD/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, giá chào từ Nga hiện dưới mức 500 USD/tấn FOB nên các nhà xuất khẩu Ukraina đang cố gắng ngăn không cho giá giảm thêm nữa.
Giá CRC từ Nga cũng giảm còn 570-600 USD/tấn FOB Biển Đen. Các nhà máy Ukraina chào bán CRC ở mức 590-610 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ giao tháng 12.
Thổ Nhĩ Kỳ
Cũng cùng cảnh ngộ với các thị trường khác, giá thép tại Thổ Nhĩ Kỳ trong tuần thứ hai tháng 11 tiếp tục suy yếu. Thậm chí dù đã giảm giá chào bán nhưng sức mua trên thị trường vẫn thưa thớt.
Đà suy yếu gần đây của giá HRC đã gia tăng áp lực và kéo giá CRC cũng như thép mạ Thổ Nhĩ Kỳ giảm theo. Tâm lý thị trường suy yếu đã kéo giá HRC xuống mức thấp 545-560 USD/tấn xuất xưởng, giảm 5-10 USD/tấn trong tuần kèm theo chiết khấu trong khi giá chào từ các nhà môi giới là 570-585 USD/tấn.
Gía CRC Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm thêm 5-10 USD/tấn trong tuần này theo đà suy yếu của giá HRC. CRC xuất xưởng hiện đạt mức 655-675 USD/tấn nhưng giá giao dịch chỉ ở mức thấp 650 USD/tấn.
CRC từ CIS chào tới Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm 20-25 USD/tấn kể từ giữa tháng 10. Gía chào từ Ukraina là 590-610 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ giao tháng 12 trong khi giá chào từ Nga là 615-630 USD/tấn.
Tương tự, giá chào xuất khẩu HDG từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ giảm thêm 5 USD/tấn còn 745-760 USD/tấn FOB trong khi giá chào xuất khẩu PPGI 9002 0.5mm đạt mức 845-870 USD/tấn FOB, giảm cùng mức tương tự.
Tuy nhiên, giá chào HDG 0.5mm tại thị trường trong nước vẫn tương đối ổn định tại mức 760-780 USD/tấn xuất xưởng trong khi HDG 1mm đạt mức 710-730 USD/tấn xuất xưởng. Gía chào PPGI 9002 0.5mm tuần này cũng không đổi tại mức 860-890 USD/tấn xuất xưởng.
Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã giảm còn 545 USD/tấn CFR cảng Vịnh, tuy nhiên, các khách hàng chưa muốn mua do giá phế và thép cây vẫn đang trên đà suy yếu.
Trong khi đó, giá nhập khẩu thép cây đạt mức 550 USD/tấn CFR cảng Vịnh,dù vậy, giá thu mua vẫn ở mức thấp 540 USD/tấn CFR cảng Vịnh.
Thị trường thép cuộn Châu Âu đã suy yếu trong tuần này do người mua hầu như không mua vào trước dự báo giá giảm hơn nữa trong khi đồng thời, các nhà máy cũng kiên trì chống lại áp lực giảm giá.
HRC từ các nhà máy trong nước vẫn ở mức 415-420 Euro/tấn đã tính phí giao hàng, do đó, các giá chào nhập khẩu không được khách hàng trong nước quan tâm nhiều. Gía chào từ Trung Quốc và Ấn Độ đạt mức 420-425 Euro/tấn CFR Antwerp.
Giá CRC trong nước đạt mức 490-510 Euro/tấn đã tính phí giao hàng, cũng bình ổn. Gía nhập khẩu CRC vẫn thu được nhiều mối quan tâm hơn so với HRC, với giá chào từ Châu Á đạt mức 460-475 Euro/tấn CFR Antwerp.
Nhiều người chọn cách chờ đợi cho tới đầu tháng 12- thời điểm nhận được các đơn hàng mới hoặc chỉ mua với khối lượng nhỏ. Tuy nhiên, họ dự báo giá sẽ giảm mặc dù các nhà máy mong muốn giữ giá bình ổn.
Nhật Bản
Trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ vẫn thấp, chi phí đầu vào giảm và sự suy yếu của đồng Yên so với dolla, các nhà máy thép Nhật Bản hầu như đều chọn cách giữ nguyên giá để giảm thiểu tổn thất.
Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) cho biết sẽ duy trì giá hợp đồng tháng 11 cho thép dầm hình H ở trong nước, tháng thứ 10 liên tiếp giá không đổi. Công ty con của NSSMC là Nippon Steel & Sumikin Shapes ở Wakayama, miền tây Nhật Bản, cũng sẽ giữ giá thép dầm hình H tháng 11 không đổi.
NSSMC không tiết lộ giá niêm yết nhưng theo nguồn tin xác nhận thì giá trên thị trường hiện nay của thép dầm hình H cỡ lớn ở Tokyo vào khoảng 80.000-81.000 Yên/tấn (693-701 USD/tấn), giảm 2.000 Yên/tấn trong tháng qua.
Trong khi đó, giá giao ngay HDG ở Nhật Bản rất có thể sẽ bắt đầu đà tăng sớm khi đồng Yên suy yếu hơn được cho là sẽ làm hạn chế khối lượng nhập khẩu. Giá trên thị trường hiện nay cho HDG 1.6mm(9,144 x 18,288mm) ở Tokyo khoảng 126.000-128.000 Yên/tấn (1.102-1.120 USD/tấn).
Ấn Độ
Nhiều nhà sản xuất thép Ấn Độ tiếp tục chật vật với nhu cầu trì trệ dành cho HRC mặc dù giá xuất xưởng đã giảm dần trong vài tuần qua.
Giá giao dịch được nghe nói cho HRC IS 2062 loại A/B dày từ 3mm trở lên vẫn duy trì mức 33.500-34.500 rupees/tấn (544-560 USD/tấn) xuất xưởng, tương đương với giá nhập khẩu là 506-520 USD/tấn CFR Mumbai, trong đó thuế suất nhập khẩu chiếm 7.5% cho HRC từ hầu hết các nước.
Hàng nhập khẩu giá rẻ từ Trung Quốc vẫn liên tục đe dọa thị trường trong nước. Chào giá HRC SS400 loại thương phẩm dày từ 3mm trở lên từ Trung Quốc vẫn duy trì ở mức thấp 470-480 USD/tấn FOB (tương đương 505-515 USD/tấn CFR Mumbai hay 31.038-31.699 rupees/tấn).
Các nhà máy thép có vẻ như sẵn sàng thỏa hiệp chỉ để tránh còn quá nhiều hàng tồn. Tuy nhiên, sức mua không có sự cải thiện sau khi các nhà máy hạ giá do người mua gần đây phải đối mặt với thanh khoản hạn chế, chính điều này không khuyến khích họ thực hiện bất kỳ việc đặt mua nào. Giá đã giảm 1.000 rupees/tấn từ khoảng 34.500-35.500 rupees/tấn xuất xưởng hồi cuối tháng trước.
Giá quặng vẫn ở mức thấp trong khi phế và phôi thanh mất giá liên tục đã thôi thúc các nhà máy Đài Loan giảm giá thép để giải phóng hàng tồn trong thời điểm cận kề cuối năm. Tiêu biểu là công ty Feng Hsin Iron & Steel đã giảm giá niêm yết trong nước cho thép thanh chịu lực xuống 300 Đài tệ/tấn (10 USD/tấn) .
Theo đó, giá bán của Feng Hsin cho thép cây đường kính chuẩn 13mm giảm còn 16.600 Đài tệ/tấn (542 USD/tấn) Đài Trung, áp dụng từ ngày 10/11. Trước đó công ty đã giữ giá không đổi trong ba tuần liên tiếp.