Mỹ
Thị trường thép Mỹ diễn biến bình ổn trong tuần đầu tiên tháng 12 dựa trên nhu cầu tiêu thụ mạnh và giá phế không đổi. Song với mong muốn giảm hàng tồn cuối năm và thử thách nhau giữa bên mua và bán, giá thép cuộn có dấu hiệu suy yếu.
Gía mua phế tháng 12 tại Chicago và Detroit vẫn không đổi. Trong khi đó, giá tại thị trường Detroit đã tăng nhẹ mặc dù các nguồn tin cho biết giá chỉ tăng ở vài trường hợp đặc biệt và không phổ biến. Tại thị trường xuất khẩu Bờ Tây, phế khối lượng nhỏ vẫn đạt mức 285-290 USD/tấn CFR Đài Loan.
Thị trường thép dầm Mỹ cũng bình ổn khi bước vào đầu tháng 12. Gía công bố cho thép hình cỡ trung là 820 USD/tấn trong khi thép dầm hình H từ Đức có giá 740 USD/tấn giao bằng xe tải tại cảng gần nhất.
Tuy nhiên, tại thị trường thép cuộn, các khách hàng đang chơi trò chơi mạo hiểm với các nhà máy trong nước khi mà họ vẫn tránh xa thị trường vào lúc này để ép các nhà máy giảm giá bán hơn nữa. Các giao dịch HRC cuối năm diễn ra ở mứ 620-630 USD/tấn đang kéo thị trường suy yếu nhưng vẫn có vài giao dịch diễn ra ở mức 650 USD/tấn đối với HRC và 770 USD/tấn đối với CRC.
Giá CRC nhập khẩu vào Mỹ đã bắt đầu giảm do người mua tiếp tục bị thu hút bởi giá chào rẻ từ Trung Quốc, tuy nhiên, vẫn chưa rõ số liệu cụ thể về số lượng hàng Trung Quốc được đặt mua.
Giá chào mới từ Trung Quốc đạt mức 640-650 USD/tấn CFR Houston, tương đương mức 610-620 USD/tấn đã tính phí giao hàng. Tuy nhiên, đó là giá dành cho các lô hàng trọng tải 3.000-5.000 tấn.
CRC nhập khẩu vào Houston tại mức 615-660 USD/tấn CIF, với giá trần thuộc về nguyên liệu nhập từ Brazil.
Thị trường đón nhận một viễn ảnh u ám khi mới bước vào đầu tháng 12 khi mà giá xuất khẩu tất cả các mặt hàng đều giảm vì nhu cầu tiêu thụ thấp đặc biệt là ở Ukraina, đồng Rub Nga suy yếu mạnh và áp lực cạnh tranh từ Trung Quốc.
Các thương nhân CIS đã giảm giá chào bán phôi thanh mặc dù thị trường đã có dấu hiệu bình ổn trước đó sau khi giá phế tăng nhẹ tại Thổ Nhĩ Kỳ.
BMZ, nhà máy tại Belarus đã mở đợt dự thầu phôi thanh tháng 1 với giá niêm yết là 380 USD/tấn FOB Biển Đen thanh toán trước đầy đủ. Sản lượng phôi thanh tháng 1 hiện có sẵn với 27.000 tấn. Dù vậy, người mua hiện tại dự thầu tại mức 360-375 USD/tấnFOB thanh toán trước đầy đủ đối với nguyên liệu BMZ, cho thấy người mua vẫn cố gắng giảm giá phôi thanh hơn nữa.
Giá phôi phiến CIS tiếp tục suy yếu do người mua đang tìm cách giảm giá xuống 20-30 USD/tấn so với cách đây nửa tháng. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, các nhà máy đang chào bán phôi phiến không bán với giá cao hơn 420-430 USD/tấn CFR, tương đương mức 400-410 USD/tấn FOB Biển Đen, giảm 10 USD/tấn so với cách đây 2 tuần. Cùng thời điểm, giá chào vào EU đã giảm 20 USD/tấn còn 425-430 USD/tấn FOB.
Giá thép cuộn CIS Biển Đen vẫn suy yếu mà không có triển vọng tăng trở lại vào cuối năm nay. Một nhà máy Nga tin rằng giá HRC sản xuất tháng 12 đã chạm đáy và có thể bình ổn trong tháng 1 tại mức 480-485 USD/tấn FOB Biển Đen và CRC cao hơn 75 USD/tấn.
Giá xuất khẩu thép cây và cuộn trơn CIS cũng tiếp tục suy yếu. Đối với các thị trường Trung Đông và Bắc Phi (MENA), các nhà máy đã giảm giá chào xuống 30 USD/tấn so với cách đây 1 tuần, còn 440-445 USD/tấn FOB Biển Đen đối với cuộn trơn và 425-430 USD/tấn đối với thép cây.
Áp lực nhu cầu tiêu thụ thấp vẫn đang đè nặng thị trường thép Châu Âu kéo giá vài mặt hàng suy yếu trong khi số khác tạm thời bình ổn.
Giá thép cuộn Nam Âu vẫn giảm do các khách hàng lớn vẫn hoãn đơn hàng và các nhà máy hạ giá chào bán để hạn chế hàng nhập khẩu tràn vào nước nhưng giá tại Tây Bắc Âu ổn định.
Tại Nam Âu, giá HRC đang được bán tại mức 390-395 Euro/tấn xuất xưởng. CRC vẫn tăng nhẹ, đạt mức 465-470 Euro/tấn xuất xưởng. HDG đã giảm mạnh kể từ đầu tháng 11 và đang được chào bán tại mức 440-445 Euro/tấn xuất xưởng.
Trong khi đó, giá thép cuộn Tây Bắc Âu bình ổn với HRC đạt mức 405-410 Euro/tấn đã tính phí giao hàng. CRC vẫn ở mức 475-495 Euro/tấn đã tính phí giao hàng.
Hàng nhập khẩu vẫn không cạnh tranh với hàng tồn sẵn có trong nước. HRC nhập khẩu có giá tối thiểu 415 Euro/tấn, cao hơn giá trong nước. CRC nhập khẩu đạt mức 460-465 Euro/tấn CFR.
Thị trường thép cây EU không có dấu hiệu thay đổi do giá phế vẫn thấp. Nhu cầu tiêu thụ vẫn yếu và thị trường không có gì thay đổi cho hết năm nay do người mua cố gắng giảm hàng tồn kho nên giá vẫn mắc kẹt ở mức 440 Euro/tấn đã tính phí giao hàng.
Tuy nhiên, tâm lý thị trường thép tấm thương phẩm Châu Âu tuần này tiếp tục suy yếu do người mua không quan tâm tới nguyên liệu mới Q1/2015 trong khi dự báo giá còn giảm nữa tới cuối năm.
Giá hiện có sẵn ở mức 500-520 Euro/tấn đã tính phí giao hàng.
Thổ Nhĩ Kỳ
Thị trường thép Thổ Nhĩ Kỳ mặc dù đang bình ổn nhưng với áp lực hiện tại thì không thể phục hồi được trong năm nay.
Giá HRC trong nước vẫn tương đối bình ổn tại mức thấp 530 USD/tấn sau khi giảm giá trong khi giá phế trong nước và nhập khẩu tăng nhẹ. Giá chào HRC xuất khẩu là 520 USD/tấn FOB.
Giá chào HRC từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ vcũng tương đối bình ổn tuần này mặc dù nhu cầu tiêu thụ trì trệ và giá chào rẻ từ Trung Quốc. Các nhà máy Ukraina đang chào bán HRC sản xuất tháng 1 tại mức 485-490 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ trong khi các nhà máy Nga chào bán tại mức 495-505 USD/tấn CFR.
Giá chào trong nước và xuất khẩu của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đối với thép mạ cũng bình ổn. Giá chào HDG 0.5mm trong nước vẫn bình ổn tại mức 740-760 USD/tấn xuất xưởng tuần này trong khi HDG 1mm đạt mức 700-710 USD/tấn xuất xưởng. Gía niêm yết PPGI 9002 0.5mm cũng bình ổn tại mức 840-870 USD/tấn xuất xưởng.
Giá chào xuất khẩu HDG 0.5mm không đổi tại mức 730-750 USD/tấn FOB và PPGI 9002 0.5mm đứng ở mức 830-860 USD/tấn FOB.
Ấn Độ
Sức mua HRC tại Ấn Độ tiếp tục sụt giảm bất chấp sự nhiệt tình của các nhà sản xuất và đại lý để thương lượng những điều khoản bán hàng ưu tiên.
Sức mua HRC tại Ấn Độ tiếp tục sụt giảm bất chấp sự nhiệt tình của các nhà sản xuất và đại lý để thương lượng những điều khoản bán hàng ưu tiên. Giá vẫn ổn định do vắng bóng người mua, với HRC IS 2062 loại A/B dày 3mm có giá 32.800-33.800 rupees/tấn (530-546 USD/tấn).
Trong khi đó, việc nhập khẩu HRC Trung Quốc với giá thấp hơn tiếp tục thử thách thị trường và giá trong nước bị áp lực. Chào giá HRC SS400 loại thương phẩm dày từ 3mm trở lên vẫn ở mức thấp 470-480 USD/tấn FOB (505-515 USD/tấn CFR Mumbai hay 31.038-31.699 rupees/tấn).
Giá thép cây Trung Đông tháng 12 đã giảm do giá nguyên liệu thô giảm và đồng dolla tăng mạnh.
Emirates Steel Industries UAE đã công bố giá thép tháng 12 và bán thép tháng 12 hồi trước cuối tháng 11. Theo dự báo, giá tháng 12 giảm 100 AED/tấn so với mức giá 2.150 AED/tấn xuất xưởng tháng 11, tuy nhiên, giá tháng 12 thực tế chỉ giảm 50 AED/tấn, còn 2.100 AED/tấn (572 USD/tấn) xuất xưởng. Gía thép của Emirates dự báo vẫn đi sai nhịp và hàng tháng 1 sẽ được mở bán vào giữa 12.
Conares cũng cắt giảm giá với mức tương tự, từ mức 2.120 AED xuống mức 2.083 AED/tấm (567 USD/tấn) xuất xưởng. Nhà máy SABIC Hadeed Ả Rập Saudi đang chào bán tại mức 570 USD/tấn xuất xưởng.
Qatar Steel đã cắt giảm nhẹ giá, từ mức 2.159 AED/tấn còn 2.124 AED/tấn (578.25 USD/tấn).
Tang Eng Iron Works đã tăng giá bán trong nước cho các sản phẩm thép dẹt không gỉ cán nóng và cán nguội thêm lần lượt 1.500 Đài tệ/tấn (48 USD/tấn) và 2.500 Đài tệ/tấn bởi vì giá niken cao hơn và kỳ vọng sức mua cải thiện.
Theo quyết định này thì giá niêm yết cho HRC 304 2mm lên 79.500 Đài tệ/tấn (2.559 USD/tấn) và CRC 2B 2mm lên 86.000 Đài tệ/tấn.
Trong khi đó, Feng Hsin Iron & Steel đã duy trì giá niêm yết trong nước cho thép thanh chịu lực do giá phế toàn cầu ổn định.
Theo đó, gía thép cây đường kính chuẩn 13mm của Feng Hsin vẫn duy trì mức 16.400 Đài tệ/tấn (528 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung, có hiệu lực từ ngày 01/12.
Hàn Quốc
Hyundai Steel cho biết rằng công ty sẽ giữ nguyên giá bán của thép dầm hình H ở trong nước cho tháng 12 do sức mua ổn định. Kết quả là, thép dầm hình H cỡ nhỏ vẫn giữ ở mức 810.000 Won/tấn (767 USD/tấn).
Nhật Bản
Nippon Steel & Sumikin Stainless (NSSC) sẽ duy trì giá bán trong nước cho CRC austenite trong những hợp đồng tháng 12, nhưng lại tăng giá thép tấm và CRC Ferrite do giá niken bình quân trong tháng 11 về cơ bản là không đổi nhưng đồng Yên suy yếu mạnh, đã để mất 8,22 Yên/USD, tỷ giá xuống còn 1 USD đổi được 117,21 Yên.
Mặt khác, công ty quyết định sẽ tăng thêm 15.000 Yên/tấn cho thép tấm và 5.000 Yên/tấn cho CRC ferrite trong tháng 12 thông qua lộ trình phụ phí hợp kim của mình.
Giá thị trường hiện nay cho CRC loại 304 (dày 2mm) ở Tokyo khoảng 330.000 Yên/tấn (2.752 USD/tấn), trong khi CRC loại 430 là 250.000 Yên/tấn (2.085 USD/tấn), cả hai đều cao hơn khoảng 10.000 Yên/tấn kể từ mùa hè.
Trong khi đó, tại thị trường thép cây, giá thép cây cỡ thường (16-25mm) ở Tokyo là 63.000-64.000 Yên/tấn (536-545 USD/tấn), giảm 2.000 Yên/tấn trong tháng qua. Còn giá ở Osaka là cỡ 61.000-62.000 Yên/tấn, thấp hơn 1.000 Yên/tấn suốt tháng qua.