Nhật Bản
Tuần này thị trường khu vực này không có nhiều chinh sách mới từ các công ty sản xuất thép đưa ra có thể tác động đến thị trường giao dịch trừ thông báo từ Nippon Steel & Sumikin Stainless (NSSC) hôm 04/12 cho biết công ty này sẽ duy trì giá giao ngay trong nước đối với những hợp đồng cuộn cán nguội và tấm không gỉ tháng 12. Lý do mà NSSC quyết định giữ mức giá bán cũ là do giá bình quân của niken trong tháng 11 đã giảm 0,15 USD/pound còn 6,23 USD/pound; đồng thời tỷ giá đồng nội tệ JPY lại suy giảm 3,98% so với đồng USD. NSSC không tiết lộ giá niêm yết nhưng theo một số nguồn tin xác nhận rằng giá thị trường hiện nay của CRC loại 304 dày 2mm tại Tokyo khoảng 300.000 Yên/tấn (2.913 USD/tấn), tăng 5.000 Yên/tấn so với tháng trước. Còn CRC loại 430 vẫn duy trì tại 240.000 Yên/tấn (2.330 USD/tấn). Nhiều khả năng sẽ có một đợt tăng giá bán lẻ trong thời gian tới do nhu cầu trên thị trường bắt đầu phục hồi trong bối cảnh NSSC không giảm giá theo đà giảm của giá niken.
Hàn Quốc
Thị trường thép xây dựng hàn Quốc tiếp tục trì trệ do nhu cầu suy giảm mạnh trong mùa đông cũng như thị trường gia tăng quan ngại dấu hiệu bất ổn của ngành xây dựng vào năm sau. Theo đó, giá bán lẻ thép cây nội địa tiếp tục doa động quanh mức thấp bất chấp việc các nhà sản xuất đã ra thông báo nâng giá bán tháng 12 từ tuần trước.
Cụ thể, Hyundai Steel và Dongkuk Steel Mill đã nâng giá bán tháng 12 lên thêm 30.000 Won/tấn (28 USD/tấn) để bù đắp chi phí đầu vào đắt đỏ như giá điện và phế liệu. Theo đó, giá bán mới của Hyundai đối với thép cây loại SD400 10mm khoảng 760.000 Won/tấn (716 USD/tấn).
Tại thị trường thép khôn gỉ, nhà sản xuất Posco đã thông báotiếp tục giữ giá bán trong nước đối với các sản phẩm thép cuộn không gỉ ferrite tháng 12. Theo đó, giá niêm yết của HRC 304 vẫn đứng tại 3,2 triệu Won/tấn (3.023 USD/tấn) và CRC 304 có giá 3,47 triệu Won/tấn (3.279 USD/tấn). Còn HRC và CRC loại 430 vẫn duy trì tại mức lần lượt 2,14 triệu Won/tấn và 2,52 triệu Won/tấn. Nhà máy này đã giữ giá thép cuộn không gỉ ổn định kể từ tháng 10 đến nay.
Giá CRC 304 dày 2mm được sản xuất bởi các nhà máy khác ở Hàn Quốc dao động quanh mốc 2,8 triệu Won/tấn (2.646 USD/tấn), giảm khoảng 50.000-100.000 Won/tấn (47-94 USD/tấn) so với tháng 11.
Đài Loan
Tuần này thị trường thép xây dựng Đài Loan tiếp tục duy trì ổn định sau tuyên bố giữ giá bán niêm yết trong nước tuần thứ ba liên tiếp từ Feng Hsin, nhà sản xuất thép cây số một nước này do nhu cầu suy yếu. Theo đó, thép cây cỡ cơ bản của Feng Hsin vẫn là 18.000 Đài tệ/tấn (608 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung. Nhà máy cũng giữ giá mua phế HMS 1&2 80:20 không đổi so với tuần trước tại mức 10.500 Đài tệ/tấn.
Tại thị trường thép không gỉ, nhà sản xuất Tang Eng tuyên bố giữ nguyên giá HRC và CRC không gỉ trong nước đối với những đơn đặt mua tháng 12, và đây là tháng thứ hai liên tiếp nhà máy không thay đổi giá bán.Theo đó, giá niêm yết giao trong nước đối với HRC 304 2mm và CRC 2B 2mm hiện nay được chốt lần lượt tại 73.000 Đài tệ/tấn (2.464 USD/tấn) và 77.500 Đài tệ/tấn. Thị trường tỏ ra không hài lòng với quyết định của Tang Eng vì cho rằng nhà sản xuất nên giảm giá theo giá niken, tuy nhiên công ty này đã lập luận rằng vì họ đã giảm giá khá mạnh trong tháng 06 và tháng 07 khi hàng nhập khẩu tràn ngập trên thị trường do vậy lần này Tang Eng đã quyết định sẽ giữ giá ổn định.
Ấn Độ
Tuần này các nhà sản xuất cuộn cán nóng trong nước tiếp tục giữ giá xuất xưởng không đổi trong tháng 12 bất chấp nhu cầu tiêu thụ trong nước vẫn còn chậm chạp vì cho rằng niềm tin thị trường tương đối bền vững; đồng thời hàng nhập khẩu tiếp tục bị hạn chế trong bối cảnh đồng nội tệ suy yếu từ tháng 09. Hiện nay, giá bán HRC A/B IS 2062, dày từ 3mm trở sản xuất trong nước có giá bình quân 36.000-37.000 Rupees/tấn (578-594 USD/tấn) xuất xưởng. Mức giá này tương đương với giá nhập khẩu 540-555 USD/tấn CFR Mumbai gồm thuế nhập khẩu 7,5%.
Kể từ tuần trước, các thương nhân Trung Quốc đã nâng chào giá đối với HRC SS400, dày từ 3mm trở lên xuất xứ Trung Quốc thêm 5 USD/tấn lên 535-540 USD/tấn FOB Trung Quốc. Nếu đến Ấn Độ thì mức giá này sẽ tương đương ít nhất là 570-575 USD/tấn CFR Mumbai.
Đông Nam Á
Tuần này, những căng thẳng chính trị ngày càng leo thang ở Thái Lan đã làm ảnh hưởng xấu đến tâm lý thị trường thép buộc các nhà sản xuất phải tạm trì hoãn thông báo giá thép cây giao tháng 12. Giá thép cây trong nước vẫn ổn định tại 19.300 Bath/tấn (600 USD/tấn) giao trọng lượng lý thuyết trong hai tháng qua. Giá nhập khẩu thép cây Ấn Độ được giao dịch tại mức 530 USD/tấn CFR.
Tại thị trường phôi, giá phôi thanh vẫn tiếp tục suy yếu, giá phôi thanh sản xuất bằng công nghệ lò cao được giao dịch tại mức 17.200 Bath/tấn, còn phôi thành được sản xuất bằng công nghệ lò hồ quang điện có giá là 17.400 Bath/tấn. Giá nhập khẩu phôi thanh nguồn gốc Nga được chào bán khoảng 540 USD/tấn CFR.
Mỹ
Thời tiết mùa đông lạnh đã gây khó khăn cho quá trình thu gom khiến nguồn cung phế hạn chế, thúc đẩy giá phế Mỹ tăng mạnh hơn so với dự báo trong tuần này. Dựa vào đó, các nhà máy thép Mỹ cũng tăng giá chào bán thép hoặc chí ít là duy trì giá do chi phí sản xuất gia tăng.
Hiện tại, các giao dịch diễn ra tại nhiều mức giá khác nhau nhưng giá chốt cao nhất là 425 USD/tấn giao tại Midwest. Gía mặt hàng phế sạch có thể tăng thêm 20-30 USD/tấn dài so với tháng trước trong khi mặt hàng phế chất lượng cao cũng tăng thêm 10-20 USD/tấn dài tại Midwest.
Do giá phế tăng, các nhà máy Mỹ cũng đã nỗ lực nâng giá thép cây lên mà gần nhất là thông báo tăng giá thêm 10 USD/tấn của các nhà máy Nucor, Steel Dynamics Inc. và Commercial Metals Co. Dự báo giá thép cây Số .5 sẽ đạt mức 660 USD/tấn xuất xưởng.
Trong khi đó, mặc dù nhu cầu tiêu thụ đã không phục hồi mạnh sau Lễ Tạ Ơn, tuy nhiên, thị trường tấm mỏng Mỹ nhìn chung vẫn mạnh với giá cả ổn định do các nhà máy vẫn duy trì giá chào bán ổn định trong tâm lý cảnh giác với hàng nhập khẩu. Việc giá phế tăng gần đây đã gây nên mối lo cho các nhà máy này bởi lẽ nếu không tăng giá, lợi nhuận sản xuất sẽ bị thu hẹp còn nếu tăng theo giá phế thì hàng nội địa sẽ mất khả năng cạnh tranh với các nguồn hàng nhập khẩu giá rẻ từ ngoài nước.
Platts hiện vẫn duy trì giá HRC và CRC cố định tại mức lần lượt 670-680 USD/tấn và 780-790 USD/tấn xuất xưởng Midwest.
CIS
Tương tự như các thị trường khác, do nhu cầu tiêu thụ trở nên trì trệ trong mùa đông nên giá chào bán các mặt hàng phôi thanh và thép từ CIS cũng chỉ duy trì ở mức ổn định. Các khách hàng mua phôi thanh lớn nhất của CIS là Thổ Nhĩ Kỳ và Ai Cập tuần này lại khá im ắng do đã nhập khẩu đủ hàng trong 2 tuần trước.
Giá chào mua các lô hàng phôi thanh tháng 12 hiện đạt mức 485-490 USD/tấn FOB Ukraina/Nga thanh toán theo từng phần. Trong khi đó, cước phí vận tải vẫn đang tác động tiêu cực tới lợi nhuận của các thương nhân CIS. Các thương nhân Địa Trung Hải và Trung Đông đã đặt mua phôi thanh từ các nhà máy lò hồ quang điện Ukraina và Nga tại mức giá 490-500 USD/tấn FOB Azov/ Biển Đen. Trong khi đó, một nhà máy EAF đã đặt mua lô hàng phôi thanh 6mm tại mức 495 USD/tấn.
Trong bối cảnh đó, các nhà máy thép thanh công cụ Nga cũng vẫn duy trì giá tháng 12 không đổi so với tháng trước. Giá tháng 12 hiện đạt mức 17.400-17.500 Rub/tấn (524-527 USD/tấn) đối với loại thép thanh cacbon cán nóng 40-80mm và 17.000 Rub/tấn (513 USD/tấn) đối với loại 120-180 mm xuất xưởng chưa tính 18% VAT. Các nhà máy Ukraina hiện đang thu mua thép thanh cán nóng tháng 12 từ Nga với giá tăng lên mức 18.000 Rub/tấn DAF. Tuy nhiên, nếu tính bằng đồng dolla, giá thép thanh cán nóng tháng 12 đã giảm 18 USD/tấn, tức 4% so với tháng trước dựa vào sự suy yếu của đồng Rub kể từ cuối tháng 10.
Trong khi đó, các nhà xuất khẩu thép cuộn CIS vẫn đang trong nỗ lực tăng giá Qúy 1 thêm 5-15 USD/tấn. Chẳng hạn như nhà máy Metinvest Ukraina đang chào bán HRC tại mức 530-535 USD/tấn FOB Biển Đen, cao hơn mức giá giao dịch tháng trước 10-15 USD/tấn. Mức giá này có thể thành công tại hai thị trường Châu Âu và Bắc Phi nhưng không thể đạt được ở Thổ Nhĩ Kỳ hay Trung Đông do giá chào từ các nước Châu Á tới khu vực này thu hút hơn nhờ vào phí vận chuyển lợi thế hơn so với từ CIS.
Severstal cũng đã bắt đầu chào bán sang Mỹ với giá tăng 10 USD/tấn so với tháng trước. Gía chào HRC từ nhà máy 2000 đạt mức 550 USD/tấn và từ nhà máy 1700 là 535 USD/tấn FOB St Petersburg. Đối với mặt hàng CRC rộng 1.250mm ngoài thị trường NAFTA, giá đạt mức 580 USD/tấn FOB St Petersburg trong khi CRC 1.524mm tại thị trường NAFTA và các thị trường khác có giá là 650 USD/tấn.
Châu Âu
Theo báo cáo giá gần đây nhất của TSI cho thấy giá các mặt hàng thép tại Nam Âu tăng, tuy nhiên tình hình thị trường Bắc Âu vẫn còn khá nhiều xáo trộn với xu hướng giá không ổn định.
Gía thép tấm, thép cây và cuộn Nam Âu đều đã tăng với giá nhiều mặt hàng thép cuộn khác nhau tăng tới 2%. Tuy nhiên, giá các mặt hàng thép không mạ tại Bắc Âu và Mỹ lại đang ổn định hoặc giảm nhẹ so với tuần trước đó, trong khi giá HDG và thép tấm giảm.
Giá xuất xưởng thép cây Nam Âu cũng tăng 5 Euro/tấn so với tuần trước, đạt mức 473 Euro/tấn (642 USD/tấn). Giá HRC trung bình hàng ngày xuất xưởng Nam Âu cũng tăng 1 Euro/tấn trong khi CRC tăng mạnh thêm 11 Euro/tấn, đạt mức 523 Euro/tấn (710 USD/tấn). Gía HDG tăng 10 Euro/tấn (1.9%) . Gía thép tấm Nam Âu cũng đã tăng thêm 3 Euro/tấn .
Tại Bắc Âu, trung bình giá HRC hàng ngày tăng 1 Euro/tấn so với tuần trước trong khi giá CRC tăng 0.4%. Tuy nhiên, giá HDG giảm 6 Euro/tấn, đạt mức 565 Euro/tấn (767 USD/tấn). Trong khi đó, giá thép tấm dày Bắc Âu xuất xưởng giảm 3 Euro/tấn, đạt mức 515 Euro/tấn (699 USD/tấn).
Thổ Nhĩ Kỳ
Do ảnh hưởng của thời tiết lạnh, các hoạt động trong nhiều lĩnh vực như sản xuất máy móc, xây dựng hay các ngành công nghiệp năng lượng khác đều trì trệ khiến nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng thép thành phẩm tại thị trường Thổ Nhĩ Kỳ nhìn chung suy yếu ngoại trừ sức mua HRC có dấu hiệu tăng trước Thềm Năm Mới.
Nhu cầu tiêu thụ thép tấm dày tại thị trường Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chậm trong khi giá đã giảm 10 USD/tấn kể từ tháng qua. Các nhà máy thép tấm trong nước chỉ đang dám trữ hàng ở mức thấp để tránh rủi ro. Gía chào bán thép tấm rộng 1.500mm dày 4-12mm đạt mức 600-615 USD/tấn xuất xưởng. Tuy nhiên, giá giao dịch chỉ đạt mức thấp 590 USD/tấn. Trong khi đó, giá nhập khẩu thép tấm dày từ CIS vẫn ổn định với giá chào từ Ukraina vào Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ổn định so với tháng trước tại mức 545-555 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ trong khi giá chào từ Nga cao hơn 10-15 USD/tấn.
Do nhu cầu tiêu thụ trong nước suy yếu nên các nàh máy nước này đã mở rộng việc xuất hàng sang các nước nhưng vẫn tập trung vào các khách hàng chủ yếu ở Trung Đông và Bắc Phi . Gía bán tới Yemen đạt mức 600 USD/tấn CFR trong khi tới UAE là 590 USD/tấn CFR. Bất chấp các điều tra chống bán phá giá chống lại thép tấm Thổ Nhĩ Kỳ tại Mỹ, nước này vẫn cố gắng đẩy mạnh bán hàng Sang Vùng Vịnh Mỹ .
Tương tự, các nhà sản xuất HDG Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang nỗ lực duy trì giá trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ suy yếu, tuy nhiên, giá chào bán vẫn đang đặt dưới áp lực lớn do thời tiết lạnh giá và sức mua ngoài nước đồng thời cũng trì trệ. Các nhà máy trong khu vực đang chào bán HDG 0.5mm tại mức giá 780-800 USD/tấn xuất xưởng trong khi HDG 1mm đạt mức 750-760 USD/tấn xuất xưởng, không đổi so với tuần trước. Gía mặt hàng PPGI 9002 0.5mm hiện đạt mức 970-1.000 USD/tấn xuất xưởng.
Tuy nhiên, trái lại với các mặt hàng khác, thị trường tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ có vẻ khá tốt với việc nhà máy HRC Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục nâng giá chào trong tuần do nhận thấy sức mua từ các nhà tiêu thụ cuối tăng trước Năm Mới, trong khi giá nhập khẩu dự báo cũng tăng. Họ đã bắt đầu chào bán lô hàng giao tháng 2 tại giá 590-600 USD/tấn, tuy nhiên, giá giao dịch vẫn chỉ đạt mức 585-590 USD/tấn và nhu cầu tiêu thụ không có sự phục hồi đáng kể nào. Gía chào bán CRC hiện đạt mức 700-710 USD/tấn xuất xưởng, HDG 0.5mm tại mức 780-800 USD/tấn và PPGI 9002 0.5mm tại mức 970-1.000 USD/tấn.