I.Toàn cảnh thị trường.
Nếu dùng một từ để mô tả thị trường thép trong tuần 13 thì chỉ có sử dụng từ “đóng băng” là thích hợp nhất.Sau tuần 12 các xu hướng giá quốc tế mà chủ yếu từ Trung Quốc đã trở nên khó dự báo hơn bao giờ hết.Cộng với nhu cầu thị trường quá thấp dẫn đến thị trường gần như đóng băng.
Hiện nay, khó khăn của ngành thép tập trung vào các điểm cơ bản như sau:
+Đối với các nhà nhập khẩu: Giá chào các đơn hàng nhập khẩu có thể nói là tương đương với thị trường giá cả trong nước đối với các mặt hàng chủ lực là thép tấm chính phẩm khổ 1500mm.Hơi cao hơn thị trường trong nước đối với loại mặt hàng cán nóng chính phẩm mỏng khổ 1000/1200/1219/1250mm.Quá cao nếu là hàng secondary.Nếu thị trường vẫn chạy, nhu cầu tiêu thụ ổn định ở một mức như năm 2003-2007 thì có thể các nhà nhập khẩu vẫn mạnh tay nhập.Tuy nhiên trong tình hình hiện nay : Sức tiêu thụ quá yếu; lãi suất quá cao(làm tăng giá thành sản phẩm 300vnd/kg/tháng) và tỷ giá bấp bênh thì việc nhập khẩu trở nên quá xa vời.
+Đối với thị trường nội địa:Hiện nay mặt bằng giá cả của các mặt hàng thép chủ lực khổ 1,5m và khổ 1000/1200/1219/1250mm vào khoảng 16.800-17.200 vnd/kg.Đối với các công ty đang sở hữu mặt hàng này việc bán ra dưới ra này chắc chắn sẽ bị lỗ.Trong khi người mua thương mại chỉ đồng ý mua ở mức giá 16.400-16.700 vnd/kg.Việc người mua đặt mua ở mức giá này không phải là không có lý do.Lý do chính đó là thời gian tiêu thụ lượng hàng mua về khá lâu, lãi suất ngân hàng cộng vào sẽ làm tăng giá thành lô hàng lên sẽ làm cho hiệu quả không cao, ngòai ra có thể chịu rủi ro rất cao khi thị trường biến động đi xuống mà xu hướng xuống dường như rõ ràng hơn xu hướng đi lên.
Tuần này, việc công bố giá ra ngòai của các công ty cũng rất hạn chế.Hầu hết các bảng giá công bố đều giữ giá tuần trước.Tuy nhiên, các nguồn tin thị trường cũng cho biết các công ty đang bán giá thấp hơn 200-300 so với bảng giá công bố.
Tại các chợ của Sắt thép ở vùng Bình Chánh, Tân Tạo, Bình Dương tình hình xuất hàng hóa rất kém.” Tuần trước bên mình còn chở một lô lớn cho khu Tân Tạo, nhưng tuần này chỉ ngồi chơi thôi, trước đây đội xe bên mình chủ yếu chở sắt thép mà còn không đủ xe.Thời gian gần đây phải kiếm thêm các mặt hàng khác để chở.Xăng dầu thì tăng giá, không biết bao giờ mới hồi phục lại lượng chở thép như trước” Một công ty vận tải cho biết.
Tỷ giá ngọai tệ tuần rồi nằm ở mức cộng 250-350 vnd so với giá công bố.Tuy nhiên lãi suất lại có xu hướng cao hơn.Ngân hàng siết chặt chẽ chuyện cho vay với ngành thép.”Hiện nay, các công ty lớn, có tính thanh khỏan, trả nợ tốt mới được ngân hàng cho vay.Còn các công ty thép nhỏ thì rất khó để vay, đã khó khăn lại càng khó khăn hơn” Một giám đốc một công ty hạng nhỏ than thở.
Phế
Thị trường phế Trung Quốc đầu tuần vẫn ổn định và trông chờ xu hướng rõ ràng hơn, trong khi Nhật Bản lo ngại về thị trường phế nội địa.Hoạt động gom phế ở khu vực Kanto gần Tokyo khá chậm do các thương nhân trong khu vực quan ngại về những hậu quả của sự nhiễm phóng xạ. “ Tất nhiên là chúng ta sẽ thấy nguồn cung phế sẽ dồi dào ở khu vực phía bắc Tohoku sau khi tập trung vào cuộc tái thiết, nhưng tất cả đều cần thời gian.” Một thương nhân ở Tokyo cảnh báo.
Thị trường phế Nhật Bản tiếp tục yếu đi sau khi Tokyo Steel Manufacturing đã hạ giá thu mua phế đến hai lần.
Về cuối tuần thấy rõ, xu hướng phế Trung Quốc có khả năng hồi phục sớm vào đầu tháng. Theo nhận định của một thương nhân phía đông Trung Quốc, giá phế khả năng tiếp tục tăng hơn nữa do được hỗ trợ bởi dự án xây dựng mới trong quý Hai, dự kiến tăng tới mức 3.800-3.850 RMB/tấn gồm VAT trong tháng 04. Bắc Kinh đã cam kết sẽ xây dựng 10 triệu nhà ở bình dân trong năm nay.
Quặng
Quặng giao ngay Ấn Độ chào bán vào Trung Quốc tăng khoảng 1-2 USD/tấn tuần rồi, nhưng khối lượng giao dịch vẫn thấp. Theo nhận định của một thương nhân tại Bắc Kinh, trong tuần này giá thép Trung Quốc có chiều hướng ổn định, nhưng giá quặng suy yếu trong tuần trước (từ ngày 21 đến ngày 25 tháng 3) nên Ấn Độ quyết định tăng giá chào lên 175-176 USD/tấn để thăm dò phản ứng của thị trường. Còn một thương nhân khác thì cho hay, quặng 63-63.5% Fe thậm chí có giá chào bán cao hơn là 177 USD/tấn.
Giá quặng tinh tại tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc đã tăng bình quân khoảng 5% trong tháng 03 cùng với sự phục hồi của giá thép gần đây sau khi giảm kể hồi cuối tháng 02.
Quặng 66% Fe có giá giao dịch vào ngày 30/03 ở mức 1.330-1.380 NDT/tấn (203-210 USD/tấn) gồm 17% VAT, cao hơn giá giao dịch 1.275-1.310 RMB/tấn hồi đầu tháng 03.
Theo nhận định của một nhà kinh doanh quặng ở Thiên Tân, giá quặng tăng chủ yếu là do giá thép tại thị trường trong nước phục hồi nhẹ.Trong đó thép cây 16-25mm tại thị trường nội địa Trung Quốc đã hồi về mức 4.800-4.820 NDT/tấn vào cuối tháng 03 sau khi trượt xuống mức 4.790-4.810 NDT/tấn đầu tháng 03.
Phôi
Giá chào phôi từ Hàn Quốc và CIS sang Đông Nam Á hiện vẫn được giữ nguyên mức 680-685 USD/tấn cfr. Tuần trước, phôi Hàn Quốc được philippine đặt mua với giá 680 USD/tấn cfr.
Tuy nhiên, giá chào từ Đài Loan đã giảm xuống còn 640-650 USD/tấn cfr (665-675 USD/tấn cfr Đông Nam Á), từ mức giá tuần trước là 660 USD/tấn.“Dù cho giá chào bán ở mức nào đi nữa thì khách hàng vẫn do dự với quyết định mua,” một thương nhân Đài loan nói. Các giá chào phôi từ Nga sang Đài Loan hiện ở mức 660-670 USD/tấn cfr.
Thị trường nhập khẩu phôi sang Đông Nam Á hiện khá trầm lắng do niềm tin thị trường khá yếu và thêm vào đó là giá thép cây tại thị trường nội địa đang hướng xuống. “ các nhà cán lại rất khó có thể nhận được giá thép cây ở mức hòa vốn. Hoặc là chịu bán lỗ hoặc là phải găm hàng chờ giá lên.” Một thương nhân philippine nói.
“Thị trường phôi cho thấy các dấu hiệu đi xuống kể từ tuần trước do nhu cầu phôi cũng như mức tiêu thụ thép thành phẩm quá thấp,” một nhà sản xuất Việt Nam nói. Giá chào phôi từ Malaysia sang Việt Nam hiện ở mức 690 USD/tấn cfr. “Nhưng khách hàng Việt Nam cũng không mặn mà lắm với mức chào này,” một thương nhân Việt Nam cho hay.
Tại Thái Lan, thị trường nhập khẩu phôi cũng khá trầm lắng, hiện đang được giao dịch ở mức 650-660 USD/tấn cfr. Phôi tấm từ CIS được chào bán với giá 680-685 USD/tấn cfr. Một thương nhân Thái Lan cho biết phôi từ Bắc Mỹ hiện có giá là 675-680 USD/tấn nhưng vẫn chưa có hợp đồng nào được thỏa thuận. Người tiêu dùng trực tiếp thích dùng phôi nội địa vì có giá rẻ hơn phôi nhập khẩu.
Các giá chào phôi từ CIS sang Biển Đen vẫn duy trì ở mức 610-630 USD/tấn fob, tuy nhiên mức giao dịch thực tế là 610-615 USD/tấn fob. Nhưng đa số khách hàng không muốn mua với giá cao hơn 600-610 USD/tấn nên thị trường vẫn trong tình trạng ế ẩm.
II.Thị trường thép xây dựng.
Thị trường xuất khẩu thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ tuần trước khá trầm lắng. không có đơn đặt mua phế nào đáng kể, do đó thị trường thép cây không có quyền quyết định về giá chào bán. Nhưng trong tuần này, các đơn đặt mua phế có cải thiện hơn chút ít nên khả năng giá chào bán thép cây cũng ổn định hơn. Được biết các chào bán hiện đang ở quanh mức 670-680 USD/tấn fob. Còn giá chào phôi hiện là 640 USD/tấn.
Thị trường thép cây Ả Rập Saudi được dự đoán là sẽ tăng lên trong dài hạn sau khi các dự án xây dựng nhà ở mới được phê duyệt bổ sung trong 10 năm tới.
Chính phủ nước này lên kế hoạch xây khoảng 500.000 ngôi nhà, qua đó có thể đẩy nhu cầu thép toàn quốc tăng 20-30% trong những năm tới.
Các dự án xây dựng nhà mới được ước tính là sẽ làm tăng lượng tiêu thụ thép hàng năm của nước này thêm 2-3 triệu tấn. Hiện tiêu thụ thép cây tại Ả Rập đạt khoảng 6 triệu tấn/năm và có thể đạt 8 triệu tấn/năm hoặc có thể cao hơn nữa.
Sau cuộc khủng hoảng chế độ nắm quyền ở Libya và sự can thiệp vũ trang của quân đội quốc tế trong thời điểm hiện tại, các công ty đang nỗ lực hạn chế tối đa mức chịu lỗ và triễn vọng kinh doanh bất thành của họ tại đất nước này.
Ngành xây dựng cũng như ngành sản xuất thép của Thổ Nhĩ Kỳ đã chịu ảnh hưởng khá nhiều tới sự gián đoạn hòa bình ở Libya. Các công ty xây dựng hiện đang ước tính đến mức độ thiệt hại của họ, còn các nhà sản xuất thép thì chờ các dự án phục hồi để lấy lại thị phần ở Libya.
Ridvan Murat, tổng giám đốc nhà sản xuất thép AlfaCelikb cho biết, mặc dù các nhà máy trực thuộc AlfaCelikb tại Libya đã tạm ngưng sản xuất, nhưng các công ty xây dựng Thổ Nhĩ Kỳ sẽ bắt đầu tái hoạt động trở lại ở Libya trong thời gian sớm nhất có thể.
25.000 công dân Thổ Nhĩ Kỳ làm việc tại Libya đã rời khỏi đất nước này vì tình trạng hỗn chiến.
Hiện tại, các nhà tham gia thị trường đang chờ xem xu hướng thị trường cũng như các đơn đặt mua mới từ khu vực này.
Một số quan ngại Thổ Nhĩ Kỳ có thể sẽ mất sự ảnh hưởng tới khu vực này, do đó sẽ mất đi các cơ hội giành hợp đồng. Thổ Nhĩ Kỳ là một thành viên thuộc khối Nato-khối dẫn đầu trong nỗ lực kiểm soat vùng cấm bay ở Libya.
Tình hình nhập khẩu thép cây và cuộn trơn ở Đông Nam Á vẫn khá yếu do các nhà nhập khẩu trong khu vực vẫn tin rằng giá cả vẫn đang xuống, trong khi các nhà cung cấp vẫn chưa sẵn sàng hạ giá chào bán để đáp ứng kỳ vọng của người mua.
Một thương nhân trong khu vực nói rằng, tổng thể thị trường vẫn ảm đạm, nhất là khu vực ở Trung Đông và Bắc Phi càng tệ hại hơn vì các khu vực này đang chịu nhiều áp lực về bất ổn chính trị, chứ không riêng gì ở Đông Nam Á. Thương nhân này cũng nhận định giá thép dài khả năng còn giảm trong vài tháng tới rồi sau đó mới tăng trở lại.
Hiện Thổ Nhĩ Kỳ đang chào bán thép cây vào Singapore với giá 700-710 USD/tấn, nhưng gần đây vẫn chưa có thông tin nào về giao dịch vì khách hàng Singapore muốn mua với giá thấp hơn khoảng 20 USD/tấn.
Còn phôi thép của Hàn Quốc ban chào bán vào Đông Nam Á ở mức 740 USD/tấn cfr nhưng sau đó họ đã điều chỉnh xuống còn 720 USD/tấn. Tuy nhiên có tin đồn là Hàn Quốc bán phôi vào khu vực với giá 700 USD/tấn cfr.
Còn Đài Loan, chào bán của nước này đã giảm xuống 690-695 USD/tấn fob (715-725 USD/tấn cfr) nhưng gúa này không mấy cạnh tranh.
Trong khi đó, thép cuộn trơn có boron từ Trung Quốc chào bán vào Philippines với giá 700 USD/tấn cdr, nhưng sẽ không có ai mua nếu như giá không giảm xuống mức 690 USD/tấn cfr, một thương nhân ở nước này nói.
Tại Miền Trung Dana-Y giá hiện tại là Phi 6 và phi 8 là 16.100vnd/kg chưa bao gồm 10% VAT không tăng so với lần báo giá trước đó.Tại thị trường thép Miền Tây, công ty thép Tây Đô tiếp tục giữ giá so với tuần trước.Hiện nay, giá thép Tây Đô đang ở mức giá 18.524-18.579 VND/kg cho loại Phi 6-10 giữ nguyên giá so với tuần trước. Thép thanh vằn CT5,SD295A từ 18.414-18,458 VND/kg tăng 440 vnd/kg, thép thanh vằn SD390 18.469-18.513 vnd/kg giá trên đã bao gồm VAT 10% và chiết khấu cho đại lý.
III. Thị trường thép tấm/cuộn cán nóng
Giá HRC trong khu vực chính thức giảm xuống sau khi các nhà sản xuất Trung Quốc điều chỉnh giá chào bán. “Các nhà sản xuất Trung Quốc hiện đang chịu áp lực lớn về doanh số bán,” Một thương nhân Hong Kong nói. Giá chào đối với thép cuộn SS400B 3-12mm hiện chỉ còn 700-710 USD/tấn cfr, giảm 50-70 USD/tấn so với đỉnh cao hồi tháng trước.
Một số nhà sản xuất Hàn Quốc và Đài Loan hiện đã điều chỉnh giảm giá chào xuất khẩu. Tuần trước, HRC cán lại chủ yếu là loại 2mm được chào bán với giá 780-800 USD/tấn fob mặc dù mục tiêu chung của các nhà sản xuất là đạt đến mức 830 USD/tấn fob.
Một số nhà sản xuất thép lớn ở Trung Quốc bao gồm Anshan Iron & Steel (Angang), Tangshan Iron & Steel (Tanggang), Shougang, Ningbo Iron & Steel (Ninggang) và Shagang đang lập kế hoạch tăng nguồn cung thép cuộn cán nóng HRC đến các đại lý giao dịch.Việc này sẽ làm tăng lượng tồn kho cán nóng tại Trung Quốc tăng lên
Do biến động giá cả và những quan ngại về cắt giảm hoàn thuế xuất khẩu, nên đơn đặt mua thép cuộn cán nóng của Trung Quốc đã bắt đầu giảm kể từ đầu tháng 3.Việc tăng nguồn cung đến các đại lý là do các nhà máy đã đẩy mạnh sản xuất trở lại sau giai đoạn bảo trì và tu bổ trang thiết bị đã hoàn tất trong tháng này.
Nhằm khuyến khích các thương nhân chấp nhận lượng cung hàng từ các nhà máy đổ về trong tháng 4 cao hơn trong tình cảnh lực cầu thị trường không mấy khả quan, nhà sản xuất Shougang quyết định hoàn trả 230-280 RMB/tấn cho các đơn hàng giao tháng 04, trong khi Ninggang đồng ý bồi thường khoản lỗ 460 RMB/tấn hồi tháng 03.
Kết quả là, nguồn cung HRC của Trung Quốc trong tháng 04 được kỳ vọng vượt mức tháng 03. Do đó, giá HRC trên thị trường sẽ chịu áp lực lớn nếu cầu không cải thiện. Thêm vào đó, nếu chính sách hoàn thuế xuất khẩu đối với HRC có boron bị hủy bỏ thì tình hình thị trường sẽ càng tệ hơn.
Giá thép cuộn cán nóng (HRC) tại thị trường nội địa Trung Quốc hồi phục trở lại kể từ ngày 23/03 chỉ sau một tuần suy yếu. Dù lực mua từ nhà tiêu thụ trực tiếp cải thiện cùng với đà tăng của giá, nhưng hầu hết các thương nhân vẫn nghi ngờ liệu giá có khả năng duy trì tăng ổn định hay không.Tuy nhiên, hầu hết các nhà tiêu dùng vẫn lo về sự phục hồi của giá hiện thời, và cho rằng lực mua cũng chỉ kéo dài trong ngắn hạn theo sự đầu cơ sau động đất ở Nhật.
Thị trường thép cán nóng vẫn đóng băng, số lượng xe xuất hàng giảm hẳn tại các công ty thương mại.Các lô hàng được khớp vào đầu tuần trước ở mức giá 16.700-16.800 vnd/kg đã tăng mặt bằng giá lên gần tới 17.000 vnd/kg.”Việc bán một lượng hàng cuộn 100-200 tấn với mức giá này gần như không khả thi, thị trường cực kỳ yếu với lượng hàng 2000-3000 ngàn tấn chả biết đến bao giờ mới bán hết, lỗ là cầm chắc ”Một công ty bày tỏ quan điểm về các lô hàng được khớp tuần rồi.
Hàng 2.0mm dùng để cán lại, tiêu chuẩn SAE1006 vẫn có nhu cầu mua, tuy mức giá người bán đưa ra khá hợp lý và thấp hơn giá chào khá nhiều nhưng người mua vẫn chưa chấp nhận.Giá bán đối với loại cán lại 2.0mm là khoảng 16.800-17.000vnd/kg cho các loại hàng xuất xứ khác nhau.Với loại hàng cán lại mức độ tiêu thụ lớn hơn do là nguyên liệu đầu vào của các nhà máy cán lại cán nguội để làm ống.
Hàng 1.75-2.0mm tiêu chuẩn SPHC chỉ dùng để cán xà gồ và 1 ít dùng để làm ống đúng độ dày.Thị trường xây dựng công nghiệp cũng gần như đóng băng nên lượng hàng ra cho băng xà gồ cũng vô cùng thấp.Mãi lực quá yếu khiến giá loại hàng này cũng hạ thấp trên thị trường nhưng người mua cũng không hào hứng.Được biết một lô hàng 1.75 và 2.0 SPHC xuất xứ Đongbu người mua chỉ chấp nhận giá 16.700vn/kg
Thị trường thép loại 2 các công ty nhỏ thi nhau chào giá thấp.Đặc điểm của hàng loại 2 là bán từng lô nhỏ, theo từng cuộn một, vì vậy khi tìm được người mua cho cuộn hàng đó , lô hàng đó có thể nói người bán sẵn sàng hạ giá để bán.Vì vậy làm cho mặt bằng giá cả của thị trường này thấp hẳn hơn so với hàng chính phẩm.
Giá bán lẻ công bố vào cuối tuần như sau
Hàng tấm
| Giá(vnd/kg) đã có VAT | Hàng cuộn lô lớn | Giá(vnd/kg) đã có VAT | ||
3 | 16,800-17,000 | 4-12mm | 16,800 | ||
4 | 17,100 | 2.0 mm | 16.800-17.100 | ||
5;6;12 | 17,200 | 2.0 đã xả băng xà gồ | 16.900-17.000 | ||
8,10 | 17,100 | | |
| |
V.Các yếu tố có thể gây ảnh hưởng đến thị trường tuần tới:
-Tỷ giá ổn định ở mức dao động thấp trong tuần tới
-Lãi suất tại Việt Nam đã ổn định tạm thời ở mức cao.
-Giá chào hàng thép cuộn cán nóng sẽ ổn định
-Thị trường thép công nghiệp sẽ giảm giá trong tuần sau!!
-Thép xây dựng tiếp tục ổn định và giảm.