Bước qua tháng 8 âm lịch với các kỳ vọng về một thị trường khởi sắc về tiêu thụ và giá cả.Hai tuần gần như đầu tiên của tháng 8 lại diễn ra khiến giới kinh doanh thép thất vọng.Những diễn biến từ thị trường nước ngoài diễn biến trái chiều cùng với sự ảm đảm về tiêu thụ khiến các dự đoán về thị trường trong tương lại trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.
I,Thị trường thép xây dựng
Nga và Ukraina đã điều chỉnh giá chào bán phôi tại Biển Đen xuống 550 USD/tấn fob, trong nỗ lực đưa giá về gần với mức kỳ vọng của người mua sau khi nhu cầu từ nước ngoài có dấu hiệu chậm lại, đặc biệt là Trung Đông. Hơn nữa, sự tácđộng của giá phôi tại Sàn giao dịch London và giá phế liệu thế giới giảm gần đây cũng ảnh hưởng đến quyết định hạ giá bán của CIS, dù nguồn cung ở khu vực này vẫn chưa cho thấy dấu khôi phục trở lại.Trong hai tuần liền kề đầu tháng 9 giá thép giao tại nhà máy dao động 15,42-15,64 triệu đồng/tấn, vượt qua mức giá cao nhất trong cơn sốt thép vào tháng 3-2010. Giá thép bán lẻ ngoài thị trường hiện đang cao hơn giá xuất xưởng của các doanh nghiệp sản xuất thép khoảng 200.000 đồng/tấn, giữ mức bình quân 15,8-15,85 triệu đồng/tấn.
Tuy nhiên, trong tuần thứ 38 trước các áp lực về cầu của thị trường, sự giảm giá phôi các nhà máy đã điều giảm giá thép từ 200-300 đồng.Sự sụt giảm gần 100.000 tấn/tháng thép xây dựng buộc các nhà máy phải giảm giá.Tuy nhiên mức giảm giá ngoài thị trường đối với các thương hiệu mạnh lại nhiều hơn.Hiện nay, thép xây dựng đang nằm ở mức giá 14.00-14.200đ/kg(chưa có VAT10%.Thép cuộn nhập khẩu từ các nước trong khối Asean chỉ nằm ở mức giá 13.2-13.500 đ/kg đã có 10% VAT.
Thị trường Miền Trung thép Dana-Y cũng có mức giảm 200 đồng/kg đang ở mức giá 13.100đ/kg chưa có 10% VAT.
Thị trường thép xây dựng Việt Nam đang có sự cạnh tranh quyết liệt của thép nhập khẩu về giá cả.Thép nhập khẩu được nhập bởi các công ty thương mại trong nước nên có sự linh hoạt về giá cả và các điều kiện thanh toán.Cộng với việc tài chính hạn hẹp khiến các công ty này sẵn sàng bán ra với giá thấp.Hiện tại, Sàn OTC Steel đang bán một lô lớn thép xây dựng nhập khẩu từ Trung Quốc với mức giá hợp lý.
II. Thị trường thép tấm/cuộn cán nóng.
Trong hai tuần qua thị trường gần như chững lại trong việc giá cả và nhu cầu.Các công ty thương mại có động thái chạy hàng trong từng đơn hàng mua.Số lượng người mua thực tế sử dụng không nhiều.
Một số lượng lớn và rất lớn hàng mỏng từ 1,2mm đến 3.0mm đã và đang cập cảng và chủ yếu từ 1,8 đến 3,0mm làm cho việc bán hàng loại này trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.Hầu hết giá bán cho loại hàng này hiện nay đang ở dưới mức hoà vốn.Như đã lường trước việc nhu cầu thép tấm dày 3-12mm khổ 1500 tiêu thụ chậm chạp nên việc ký các loại hàng này rất ít và lượng hàng về cảng trong 2 tuần qua cũng không nhiều.Nhưng lượng hàng trong nước vẫn còn nhiều nên giá cả không tăng mà còn giảm
Các chào hàng cho thép cuộn cán nóng dày 3-12mm, SS400 về mức giá 610-620 USD/tấn.Và 650-655 USD/tấn cho hàng cán nóng mỏng từ 1,5-3,0 mm.Giảm 20-30 usd so với mức giá 2 tuần trước.
Hai tuần qua, giá thép cuộn cán nóng HRC âm vạch 3.0mm-12mm x1500mm tại HN và HCM có giá bán bình quân là 12.550 đồng so với tuần trước. Các giao dịch OTC Steel đã khớp ở mức giá 12.600 cho hàng tấm nhưng ở số lượng thấp.
Hàng 2.0 MMK tiêu chuẩn SPHC hiện đang được chào giá 13.600 cho khối luợng lớn.Hàng SAE1006 dùng để cán lại thép cán nguội loại 2.0 được chào bán 13.600đ/kg và 1.75 được bán với giá 13.700 đ/kg.
Các giao dịch OTC Steel đã khớp ở mức giá 13.600 cho hàng 2.0 SAE1006 MMK.
Giá phôi cán xà gồ vẫnở mức giá 14.200 đ/kg cho loại 2,0mm SPHC và 14.400đ/kg cho loại 1,8 mm.Mức giá này là mức giá công bố và linh động giảm 100-200 cho các khách hàng.
Hàng loại hai từ 1,4mm đến 16mm trong 2 tuần qua nhập với số lượng khá lớn khoản hơn 20.000 tấn về cảng TPHCM.Loại hàng này vẫn có số lượng tiêu thụ nhất định nhưng sẽ rất cạnh tranh về giá cả khi số lượng hàng về khá nhiều.
III,Toàn cảnh thị trường
Hiện nay, chúng tôi tạm phân thị trường thép Việt Nam có 03 mảng lớn chính dành cho các công ty thương mại nhập khẩu như sau:
-Thị trường cuộn HRC mỏng: Phục vụ cho cán lại, các nhà máy ống, cán xà gồ.Độ dày thông dụng từ 1,2mm đến 3mm.Các tiêu chuẩn thông dụng SAE1006,SPHC,SPHT1 và 1 vài t/c khác.Với loại hàng này thị trường luôn luôn có một lượng tiêu thụ nhất định do việc sử dụng ống(xây dựng,dân dụng, kết cấu..), các nhà máy cán tole, xà gồ cho dân dụng.Hiện nay, việc nhập về quá nhiều lượng hàng phục vụ cho thị trường này, khiến cung vượt quá cầu làm ảnh hưởng xấu đến giá cả tiêu thụ.Các nhà nhập khẩu vốn đã khó khăn về tài chính và sợ tuột giá nên đã có hiện tượng chạy hàng nhằm giải quyết khó khăn.
-Thị trường thép cuộn dày: Phục vụ cho đóng tàu, xà lan, các công trình nhà xưởng,công trình kết cấu công nghiệp, gia công cơ khí thô….vv.Độ dày thông dụng từ 3,0mm-20mm.Các tiêu chuẩn thông dụng SS400,Q345B và 1 vài t/c khác.Hiện nay mặt hàng này trong nước còn rất nhiều và tiêu thụ chậm chạp.Nhièu giai đoạn gần như chỉ có các giao dịch thương mại.
-Thị trường hàng loại 2: Phục vụ cho đóng tàu, xà lan, các công trình nhà xưởng,công trình kết cấu công nghiệp, gia công cơ khí thô,cán ống, xà gồ, băng kéo dây,….vv.Độ dày thông dụng từ 1.2 mm-20mm.Thị trường luôn luôn có một lượng cầu và cạnh tranh với 2 thị trường thép cuộn dày và thị trường HRC mỏng.Đối tượng sử dụng hàng loại 2 này khá đa dạng và linh hoạt chuyển đổi từ việc sử dụng thay thế từ 2 thị trường trên.Mức giá cạnh tranh hơn so với hàng chính phẩm.Mua hàng loại 2 từ nước ngoài cũng khó khăn hơn .
Ngoài ra còn còn hàng cán nguội, hàng mạ điện mạ kẽm, thép hình…vv nhưng số lượng không lớn như các mảng kia nên chúng tôi không đề cập đến.Các phân tích thị trường chuyên sâu hơn sẽ được cập nhật trong các bản tin sau