I.Toàn cảnh thị trường:
Thị trường thép tuần 46 diễn ra khá phức tạp giữa thị trường trong nước và nước ngoài.Các thông tin tăng giá, giảm giá đan xen lẫn nhau giữa các loại thép khiến người kinh doanh hết sức mơ hồ về tình hình thị trường sắp tới.
Tỷ giá usd tiếp tục là mối quan tâm của người kinh doanh thép khi nó đang ở mức cao và diễn biến phức tạp.Bập bềnh ở mức 20.850-21.050 trong suốt những ngày đầu tuần, tỷ giá tự do đột ngột lên ở mức 21.150 vào ngày thứ sáu cuối tuần.Cũng với lãi suất huy động vượt trần, có ngân hàng đạt mức 13,5%/năm thì lãi suất cho vay cũng vào cuộc đua tăng giá mới.Trong tuần một số ngân hàng đã thông báo lãi suất cho vay là 19-20%/năm.
Trong tuần chứng kiến sự tăng của toàn bộ thị trường thép với mức tăng từ 200-400 tuỳ theo loại thép.Điều này cũng dễ lý giải tại sao “ Giá phôi tăng trong tuần vừa rồi, tỷ giá tăng, lãi suất tăng thì việc chúng tôi tăng để bù đắp các khoản tăng trên là điều hợp lý, tuy nhiên mức tăng của thị trường vẫn chưa theo kịp, giá thành trong nước vẫn thấp hơn so với giá chào quốc tế hiện nay-Một công ty thương mại thép công nghiệp cho biết”
Giá phế HMS 1&2 (80:20) của Mỹ xuất khẩu sang Đài Loan hiện đã điều chỉnh lên 400-405 USD/tấn C&F và kỳ vọng giá sẽ còn tăng nữa.dự báo giá phế HMS 1&2 (80:20) khai thác từ tàu cũ của Mỹ xuất khẩu sang Đài Loan sẽ tăng lên mức 440-450 USD/tấn C&F và phế HMS 1&2 (80:20) khai thác từ container cũ sẽ là 420 USD/tấn C&F.
Do các nước Trung Đông vẫn đang đóng cửa nghỉ lễ ăn mặn kể từ tuần trước nên xuất khẩu phôi của CIS cũng tạm thời nghỉ ngơi trong tuần nàyTuy nhiên một số chào hàng từ CIS vào Việt Nam với giá 580-590 IUSD/tấn cfr và phôi từ một số nước Đông Nam Á khác như có giá chào 605-610 USD/tấn cfr, chắc chắn giá này sẽ không có người mua.
Trong tuần chỉ có một tàu hàng cập cảng với hơn 2 ngàn tấn thép HRC mỏng.Tình hình diễn biến bất lợi trong nước khiến nhà nhập khẩu không mặn mà lắm với việc nhập khẩu hàng chính phẩm hiện nay.
II,Thị trường thép xây dựng
Giá chào thép thanh vào Đông Nam Á trong tuần này tăng do giá phế tăng, Các nhà nhập khẩu vẫn chưa đề cập đến các đơn đặt hàng mới.
Thổ Nhĩ Kỳ đang chào bán thép thanh vào Singapore với giá 630-640 USD/tấn cfr, tăng 10 USD/tấn so với giá tuần trước.Đài Loan chào bán với giá 650 USD/tấn cfr. Còn Trung Quốc chào bán thép cây có boron cho Singapore là 630-640 USD/tấn cfr.
Còn về thép cuộn trơn, Trung Quốc gần đây nâng giá chào bán thép cây vào Đông Nam Á lên 650-660 USD/tấn cfr, xem ra quá cao đối với các nhà nhập khẩu trong khu vực, trong khi Philippines nhập cuộn trơn từ Nga chỉ 625 USD/tấn cfr.
Tại Việt Nam, nhu cầu phôi nhập khẩu cũng yếu vì các nhà cán lại đã quay về dùng phôi sản xuất trong nước với giá 12,6 triệu đồng/tấn (600 USD/tấn), còn nếu được chiết khấu, giá là 12,4-12,5 triệu đồng/tấn (590-595 USD/tấn). Một thương nhân Việt Nam cho biết, các nhà sản xuất phôi trong nước thực hiện chiết khấu để khuyến khích lực mua, nhưng chắc chắn chiêu khuyến mãi này sẽ không thể kéo dài vì giá phế liệu tăng cao.
Các nhà máy đã đưa ra thông báo tăng giá ngay trong đầu tuần.Thép Miền Nam, Pomnina tăng 300 vnd/kg.Hiện nay, giá thép cuộn tròn trơn đang mức giá 16.016-16.291 vnd/kg.Giá thép thanh vằn từ 16.027-16.577 vnd/kg.Giá thép tròn trơn là 16,357 vnd/kg.Mức giá trên đã bao gồm VAT 10% và chiết khấu của nhà máy.
Thị trường Miền Tây, thép Tây Đô đã tiếp tục thông báo tăng giá 300 vnd/kg. Giá thép cuộn tròn trơn đang mức giá 15.554-15.609 vnd/kg.Giá thép thanh vằn từ 15.664-15.708 vnd/kg.Giá thép thanh vằn SD390 là 15,719-15,763 vnd/kg.Mức giá trên đã bao gồm VAT 10% và chiết khấu của nhà máy.
Thị trường Miền Trung thép Dana-Y đã có thông bao giá mới.Giá hiện đang ở mức 13.600 vnd/kg chưa có VAT 10%.Mức tăng 300 vnd/kg chưa VAT
III. Thị trường thép tấm/cuộn cán nóng
Sản lượng thép cuộn cán nóng HRC và thép tấm của Trung Quốc giảm xuống.Sụt giảm sản lượng bắt đầu chậm lại trong tháng 11.Tháng 10, Trung Quốc đã sản xuất được 10,94 triệu tấn HRC và thép tấm, giảm 5% so với tháng 09 và giảm 13% so với tháng 08.Chiến dịch tiết kiệm năng lượng sẽ tiếp tục cho đến đầu năm sau, nhưng có khả năng sẽ bị hủy bỏ sớm hơn dự kiến. Do đó sản lượng thép tấm và HRC Trung Quốc từ đây đến hết năm 2010 sẽ ở mức thấp. Không chỉ sản lượng HRC giảm mà tồn dự trữ cũng đang giảm xuống. Theo ước tính, tồn dự trữ ở Thượng Hải và Lecong (Quảng Đông) trong tuần qua đã giảm thêm 20.000 tấn.
Đây là tin tốt, vì vậy các nhà kinh doanh HRC tin rằng giá thép sẽ tiếp tục tăng lên dù giảm 100-150 NDT/tấn (15-23 USD/tấn) vào cuối tuần trước do ảnh hưởng bởi giá các hợp đồng tương lai cũng như giá trên sàn điều chỉnh.
Tuy nhiên, có hai nhà sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc quyết định hạ giá thép cho đơn đặt hàng tháng 12 sau khi Baosteel giữ nguyên giá không đổi từ tháng 11 và lo lắng nhu cầu thép tấm yếu trong mùa đông này.Cụ thể, Wuhan Steel giảm 22,59 USD/tấ, Angang giảm 30usd/tấn cho tháng 12.
Quyết định sẽ giữ nguyên giá thép tháng 12 của Baosteel đã làm hạn chế đà giảm giá trên thị trường thép giao ngay.Hiệp hội Gang Thép Trung Quốc dự đoán gía thép trong nước sẽ còn bất ổn trong một thời gian nữa do rơi vào thời gian điều chỉnh thấp của nhu cầu trong mùa đông, thêm vào đó các chính sách thắt chặt tiền tệ của chính phủ nhằm hạn chế lạm phát 4,4% ở nước này.
Giá chào thép cuộn cán nóng 2,8mm-15.8mm từ Xinyu, Trung Quốc trong tuần rồi là 610 usd/tấn tương đương với 14.350 vnd/kg.Tuy nhiên, khách hàng trong nước chỉ trả đến 600usd/tấn.Chào hàng HRC cán nóng mỏng dưới 3.0 cũng được chào ở giá 630 usd/tấn và đã có 5000 tấn được ký ở giá 620 usd nhưng thời gian giao hàng vào tháng 02/2011.
Thị trường thép trong tuần qua đã có nhịp tăng giá.Ngay từ đầu tuần giá cả các mặt hàng thép đã được nâng lên 300 đồng/kg.Các mặt hàng khác cũng đã có sự tăng giá tương tự nhưng mức tăng không đều nhau.
Giá thép tấm bán lẻ 6mm;8mm,10mm khổ 1500mmx6mm (tính barem) ở TP HCM lên ở mức 13.800 vnd/kg tăng 200-300 so với tuần truớc,.Riêng 12 mm đang ở mức giá 13.800-13.900vnd/kg. Giá cho các loại hàng tấm mỏng 3mm,4mm,5mm ở mức 14.200-14.300 vnd/kg và cho loại hàng 18-25 giá khoảng 14.000-14.730vnd/kg.Giá hàng cuộn chính phẩm sau khi được chốt hơn 1000 tấn với giá 13.800 đã được nâng lên mức giá 13.900 đến 14.000 vnd/kg tuy nhiên mức giá 13.900 cũng rất ít người mua được.
Ở Phía bắc, giá các loại hàng hoá cũng đã được tăng lên cao hơn 300 vnd/kg so với HCM.
Thị trường nhập khẩu thép cuộn cán nóng HRC ở khu vực Đông Nam Á lại quay lại trạng thái trầm lắng, một vài nhà sản xuất của Hàn Quốc và Đài Loan chào bán một vài lô hàng HRC loại cán lại với giá 630 USD/tấn.
Thị trường HRC hiện đang chịu nhiều sức ép, nhu cầu yếu và rất ít giao dịch. Vì vậy mà các nhà sản xuất nước ngoài rất khó khăn trong việc tìm kiếm khách hàng đặt mua ở Đông Nam Á, nhất là đối với Việt Nam.
Tình hình thị trường indonesia cũng rơi vào trì trệ kể từ đầu tuần qua, giá cả thì giảm khiến người mua quay lại tình trạng nghe ngóng. Cách đó hai tuần, Jakarta nhập 4.000 tấn HRC loại dưới 1,8mm từ Đài Loan với giá 640 USD/tấn cfr.
Thép HRC cuộn mỏng loại 2,0mm MMK đang được giữ ở mức 13.800-13.9000 vnd/kg và 14.100-14.200 vnd/kg cho loại Xinyou, ĐongBu, Posco… Giá thép hàng 2.2-2,95 tiêu chuẩn SPHC cũng đã chào ra ở mức 13.800 vnd/kg.
Giá phôi cán xà gồ đã mức giá 14.300 đ/kg cho loại 2,0mm SPHC và 14.600đ/kg cho loại 1,8 mm, 15,000-15,2000 cho loại 1,5mm tăng 300-400 vnd/kg so với tuần trước.
Hàng băng lỡ khổ dùng để kéo dây cũng đã chào tăng giá đăng ở mức 12.800 và cuối tuần đặc biệt một số công ty đã lên giá 13.200 vd/kg cho lựa
Trong tuần vừa qua chỉ có hơn 2ngàn tấn cuộn hàng cán nỏng mỏng đã cập cảng TP HCM.Llượng thép các nhà máy đặt về để sản xuất khoảng 1,100 tấn.
IV.Các yếu tố có thể gây ảnh hưởng đến thị trường tuần tới:
-Diễn biến tỷ giá USD tại Việt Nam còn nhiều phức tạp.
-Giá chào hàng quốc tế
-Thông báo giảm giá, giữ giá của các nhà máy lớn Trung Quốc.
-Tốc độ hồi phục kinh tế, tình hình xây dựng vào các tháng cuối năm.
-Nhu cầu có thể chậm hẳn lại do việc tiếp tục tăng lãi suất ngân hàng và siết chặt cũng như ngừng cho vay của các ngân hàng.
V.Lượng hàng cập cảng trong tuần 46
Tên hàng hoá | Tên Tiếng Việt | Số lượng (tấn) |
PRIME HOT ROLLED COIL 1.8-2-2.3-2.4-2.8x1250(1219) | Hàng chính phẩm cán nóng(Không tẩy rỉ) | 2.288.000 |