Giá nickel tại Thượng Hải ngày 12/3 tăng, sau khi dự trữ nickel tại Sở giao dịch kim loại London (LME) trong ngày thứ sáu (9/3) suy giảm. Trong khi thị trường chứng khoán châu Á hồi phục đã khiến giá các kim loại khác tăng, ngoại trừ nhôm.
Giá nickel giao kỳ hạn tháng 7 tại Sở giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (ShFE) tăng 3,5% lên 104.35 NDT (tương đương 687,37 USD)/tấn, ngày tăng mạnh nhất kể từ ngày 2/11. Giá nickel mở cửa trong ngày thứ sáu (9/3) tăng 4,3%, dõi theo giá kim loại tại LME tăng.
Giá nickel tại LME giảm 0,6%. Trong phiên trước đó, giá nickel tăng 4,5% sau khi số liệu tại LME cho thấy rằng dự trữ tại kho ngoại quan giảm 13%.
Giá đồng giao kỳ hạn 3 tháng tại LME giảm 0,3% xuống còn 6.941 USD/tấn, đóng cửa tăng 1,9% trong phiên trước đó. Giá đồng giao kỳ hạn tháng 5 tại ShFE tăng 1,2%.
Giá nhôm tại SHFE giảm 0,6% xuống còn 14.120 NDT/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất 1 năm trong ngày thứ sáu (9/3), do hạn chế trong mùa đông đối với các nhà máy luyện kim của Trung Quốc sẽ được dỡ bỏ trong 3 ngày tới.
Mỹ mở đường cho việc miễn thuế thép và nhôm trong ngày thứ sáu (9/3), sau áp lực từ các đồng minh và vận động hành lang từ các nhà lập pháp, làm mờ nhạt các biện pháp chỉ 1 ngày sau khi được công bố chính thức.
Người đứng đầu Maike Group, nhà kinh doanh kim loại tư nhân lớn nhất Trung Quốc cho biết, ông sẽ đề xuất tại phiên họp Quốc hội năm nay cho phép kho ngoại quan đăng ký với Sở giao dịch kim loại London thiết lập cảng thương mại tự do Thượng Hải.
Chính phủ Chile đã yêu cầu các cơ quan quản lý chống độc quyền ngăn chặn việc bán cổ phần tại công ty lithium SQM cho một công ty Trung Quốc.
Tổng thống Cộng hòa Dân chủ Congo, Joseph Kabila đã ký 1 đạo luật mới về khai thác mỏ, làm gia tăng thuế tài nguyên và thuế đối với các nhà khai thác.
Chứng khoán châu Á tăng mạnh nhờ tín hiệu tích cực từ thị trường Mỹ, sau báo cáo số liệu việc làm mới nhất ở Mỹ gây ấn tượng với đà tăng trưởng mạnh của thị trường lao động, trong khi nỗi lo về lạm phát và tốc độ tăng lãi suất có phần lắng dịu.
Xuất khẩu quặng sắt của Australia trong tháng 1/2018 đạt 65,83 triệu tấn. Trong số đó, Australia xuất khẩu phần lớn quặng sắt từ Port Hedland với khoảng 36 triệu tấn, tiếp theo Port Walcott với khoảng 15 triệu tấn, Dampier Port với 10 triệu tấn. Xuất khẩu quặng cục đạt 15 triệu tấn, quặng bột đạt 50 triệu tấn, quặng pellet đạt 160.000 tấn.
Trung Quốc là thị trường xuất khẩu quặng sắt lớn nhất của Australia đạt 55,6 triệu tấn, tiếp theo là Nhật Bản đạt 5,9 triệu tấn, Hàn Quốc đạt 2,8 triệu tấn.
Chỉ số quặng sắt Trung Quốc (CIOPI) đạt 252,64 điểm trong ngày 9/3, giảm 1,95% (tương đương 5,03 điểm) so với ngày trước đó. Trong số đó, chỉ số giá quặng sắt thị trường nội địa đạt 243,75 điểm, giảm 0,05% (tương đương 0,13 điểm) so với chỉ số giá trước đó, chỉ số giá quặng sắt nhập khẩu đạt 253,98 điểm, giảm 2,22% (tương đương 5,78 điểm) so với chỉ số trước đó.
Nguồn tin: Vinanet