THÉP DÀI
• Mặc dù giá năng lượng đầu vào gia tăng song do áp lực tiêu thụ thấp và phế giảm giá nên thị trường thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ gặp áp lực giảm giá tỏng khi các nhà máy nội địa cố gắng tăng giá để bình ổn giá đồng USD do đồng Lira sụt giảm.
Giá khí đốt tự nhiên và giá điện tăng gần đây tăng, với giá bán khí tự nhiên cho các nhà máy điện tăng tới 49.5%, nâng chi phí điện cho người dùng cuối khoảng 14-15% tính theo đồng Lira. Chi phí điện chiếm khoảng 5-10% chi phí đầu vào tổng thể trong một lò EAF sẽ khiến chi phí đầu vào cho EAF Thổ Nhĩ Kỳ tăng gần 1 %. Tuy nhiên, do nhu cầu chậm và giá phế nhập khẩu giảm xuống dưới 330 USD/tấn CFR nên các nhà máy đang cố gắng giữ giá ổn định mức 545- 550 USD/ tấn FOB tùy thuộc vào trọng tải và điểm đến, trong khi giá chào mua của người mua nói chung dưới 540 USD/ tấn FOB.
Tiêu thụ thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ kỳ chậm do Mỹ áp dụng chính sách thuế 232 và EU cũng sử dụng các biện pháp tự vệ tạm thời sẽ gây áp lực cho các nhà máy xuất khẩu thép cây.Trong khi đó, các thị trường xuất khẩu khác cho thép thành phẩm Thổ Nhĩ Kỳ như Yemen, Israel cũng im ắng trở lại vào đầu tháng 7. Dựa vào tiêu thụ thấp trong hè, giá sẽ giảm thêm nữa vào tháng 8 xuống 10 USD/tấn, còn khoảng 540 USD/tấn FOB.
• Thị trường thép dài Mỹ vẫn ổn định do giá cả bình ổn trước chính sách thuế 232 của Mỹ. Nhu cầu tiêu thụ cũng mạnh trong hè nhưng giá phế đang giảm khaongr 10-20 USD/tấn có thể gây áp lực cho thị trường.
Giá thép dây Midwest ổn định mức 780-800 USD/tấn trong khi thép cây Southeast ở mức 700-720 USD/tấn. Dự báo giá tháng 8 chỉ tăng nhẹ 10-20 USD/tấn nhờ được bởi chính sách thuế 232 trong khi giá phế liệu giảm.
• Giá thép cây nội địa Ý tăng ít nhất 20 Euro/tấn và nhiều nhất là 30 Euro/tấn dựa vào tồn kho thấp tại các nhà máy trước lễ truyền thống tháng 8.
Giá giao dịch trung bình tăng lên 270-280 Euro/tấn (314.66-326.32 USD/tấn) xuất xưởng từ mức 250 Euro/tấn trước đó. Trong vài trường hợp, giá ở mức 285-290 Euro/tấn xuất xưởng. Vài nhà cán lại đã bán lượng đáng kể trong 2 tuần qua trước khi ngưng 3 tuần từ đầu tháng 8 như thường lệ. Kết quả là tồn kho giảm và giá tăng.
Các bất ổn tiếp tục trên thị trường dù Uỷ ban Châu Âu cuối cùng đã tiết lộ quyết định tự vệ. Tuy nhiên, áp lực hàng nhập khẩu sẽ giảm giúp hỗ trợ giá trong nước cùng với chi phí sản xuất gia tăng. Do đó, các nhà máy có thể tăng giá thêm 20-30 Euro/tấn vào tháng 8.
• Các nhà máy của CIS đã tăng giá chào cho các sản phẩm thép dài xuất khẩu cuối tháng 7 - tháng 8 dựa vào đà phục hồi giá phôi và xu hướng lạc quan ở Trung Quốc cũng như thị trường thép Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, thị trường thé đang chịu áp lực nhu cầu tiêu thụ suy yếu.
Chào giá thép cây CIS ở mức 555 USD/tấn FOB Biển Đen. Nhu cầu tiêu thụ từ người mua thấp và giá chào mua gần mức 530-535 USD/tấn FOB.
Trước sức ép tiêu thụ chậm, giá sẽ gặp áp lực nhưng cũng được hỗ trợ từ giá phôi thanh nên sẽ tăng nhẹ 10-20 USD/tấn vào tháng 8.
THÉP DẸT
• Giá thép cuộn cán nóng của Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng trong những tuần gần đây, được hỗ trợ bởi một số doanh số bán mạnh vào Châu Âu, nhưng do mùa tiêu thụ trì trệ đã bắt đầu ở EU vào tuần trước, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đối mặt với áp lực giảm giá.
Tuy nhiên, các nhà máy vẫn tiếp tục tập trung vào xuất khẩu, do nhu cầu tại thị trường trong nước vẫn chậm chạp, trong bối cảnh biến động tỷ giá hối đoái.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn duy trì giá chào bán HRC của họ trên thị trường EU trên mức 610 USD/tấn FOB, nhưng nhu cầu thấp và một số đối thủ cạnh tranh đã gây áp lực cho họ. Sau một số đơn hàng bán ở mức 580 - 585 USD/ tấn FOB trong tháng 6, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá chào bán lên 610- 620 USD/tấn FOB.
Trong khi đó, nhu cầu tại thị trường nội địa Thổ Nhĩ Kỳ vẫn trì trệ do vấn đề dòng tiền phát sinh từ sự sụt giảm của đồng lira so với đồng USD. Và trong khi giá chào bán của các nhà máy HRC Thổ Nhĩ Kỳ vẫn giữ nguyên trong khoảng 615-620 USD/tấn xuất xưởng, một số chiết khấu đã được nghe thấy trên thị trường đối với các đơn hàng khối lượng lớn.
Tâm lý mạnh tại EU dựa vào thuế tự vệ sẽ giúp hỗ trợ giá xuất khẩu HRC của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ nhưng áp lực tiêu thụ trì trệ trong hè cũng sẽ gây áp lực cho giá. Do đó, dự báo giá chỉ nhích khoảng 10USD/tấn lên khoảng 630 USD/tấn trong tháng này.
• Các nhà máy Mỹ giảm nhẹ giá chào HRC trong 10 ngày qua sau khi người mua do dự đặt hàng. Chào giá giảm từ 920-930 USD/tấn xuống 900-910 USD/tấn nhưng không thu hút. Thị trường đang giao dịch trong phạm vi hẹp gần 900 USD/tấn.
Các thành viên thị trường đang theo dõi các đàm phán thương mại giữa Mỹ với EU về việc loại bỏ thuế quan giữa 2 bên, gồm cả chính sách thuế 25% hiện tại. Mỹ và EU không cung cấp thời gian cho các đàm phán sắp tới, nhưng Tổng thư ký thương mại Wilbur Ross cho biết cơ quan này đang tìm cách xúc tiến nhanh.
Giá vẫn sẽ được hỗ trợ từ giá phế ổn định và hàng nhập khẩu hạn chế do chính sách thuế 232 nhưng do giá dự báo đã đạt đỉnh nên sẽ chỉ ổn định tầm 900 USD/tấn.
• Giá xuất khẩu HRC và CRC trên thị trường giao ngay Biển Đen ổn định do các nhà máy giữ giá chào không đổi cho thép sản xuất tháng 8 giao tháng 9. MMK của Nga được nghe là hoạt động tích cực trên thị trường Biển Đen với cuộn cán nóng lớn của nhà máy này được bán với giá 570 USD/tấn FOB trong khi cuộn nhỏ hơn được bán với giá thấp hơn 10 USD/tấn; cuộn cán nguội được bán với giá 620 USD/tấn FOB.
Giá ổn định chủ yếu là nhờ phôi phiến đang tăng giá. Dự báo giá sẽ tiếp tục ổn định trong tháng 8 do sức mua không hỗ trợ.
• Thị trường nhập khẩu thép cuộn ở Châu Âu đã không nhận được nhiều quan tâm sau khi EC công bố hạn ngạch thuế quan cho thép nhập khẩu vào EU. Thời gian giao hàng dài và không có lợi thế so với giá trong nước vẫn là rào cản để các khách hàng có thể nhập khẩu trở lại với quy mô lớn.
Giá thép cuộn cán nóng từ khu vực CIS đã được giao dịch ở mức 550-560 Euro/tấn giao tại Hà Lan, trong khi mức giá chào bán tại Ấn Độ là 550 Euro/tấn CIF Antwerp, chỉ thấp hơn khoảng 15-20 Euro/tấn so với giá xuất xưởng. Một đề nghị nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đã được nghe tại 540-545 Euro/tấn CIF Ý.
Đối với thép cuộn cán nguội, giá chào nhập khẩu của Ấn Độ đã được nghe khoảng 610 Euro/tấn CFR Ý và khoảng 620 Euro/tấn CFR Antwerp, chỉ thấp hơn khoảng 20 Euro/tấn so với giá xuất xưởng - giá Ruhr.
Hạn ngạch được phân bổ trên cơ sở ai đến trước được phục vụ trước, và ở giai đoạn này không được phân bổ bởi từng quốc gia Do thời gian nhập khẩu hạn chế trước khi khối lượng vượt quá mức trung bình của hàng nhập khẩu trong 3 năm qua.
Tâm lý thị trường tích cực cho các nhà máy Bắc Âu với hàng nhập khẩu giảm, cạnh tranh từ các nước thứ ba thấp.Tuy nhiên, tình hình thuế quan còn bất ổn nên giá còn biến động cho tới cuối tháng. Các nhà máy sẽ tiếp tục tăng giá để bình ổn thị trường. Dự báo giá HRC Bắc Âu vào tầm 580-600 Euro/tấn trong tháng tới.
SẢN LƯỢNG THÉP THÔ
Sản lượng thép thô toàn cầu tăng 4.6% trong nửa đầu năm 2018 so với cùng kỳ năm trước, do biên lợi nhuận cao khiến các nhà máy sản xuất lớn tăng vọt.
Sản lượng thép thô cho 64 nước thành viên của Hiệp hội Thép Thế giới là 881.5 triệu tấn trong nửa đầu năm nay. Trong tháng 6, sản lượng tăng 5.8% so với tháng 6/2017 lên 151.4 triệu tấn.
Sản xuất tại Trung Quốc, quốc gia có nền sản xuất và tiêu thụ một nửa lượng thép thế giới, tăng 6% lên 451.2 triệu tấn trong nửa đầu năm, và tăng 7.5% trong tháng 6 so với tháng 6/2017, đạt 80.2 triệu tấn.
Sản lượng thép tại Mỹ tăng 2.9% trong nửa đầu năm lên 41.9 triệu tấn và tăng 0.8% trong tháng 6 lên 6.9 triệu tấn, theo Hiệp hội, cho thấy nhu cầu mạnh đối với kim loại khi nền kinh tế tăng.
Sản lượng tại Ấn Độ trong năm 2018 đã vượt Nhật Bản để trở thành nhà sản xuất thép lớn thứ hai thế giới, tăng 5.1% trong nửa đầu năm, trong khi sản lượng của Nhật Bản cao hơn 1.3%.
Dự báo sản lượng toàn cầu sẽ tiếp tục tăng trong vài tháng tới khi các nhà máy Trung Quốc tận dụng lợi nhuận cao hơn và tăng sản lượng trước chiến dịch hạn chế mùa đông. Đồng thời, mức thuế nhập khẩu thép của Mỹ, cùng với giá cao, sẽ tiếp tục khuyến khích đầu ra của Mỹ.
Tuy nhiên, sản lượng tăng được hạn chế phần nào bởi chính sách môi trường kiểm soát sản lượng của Trung Quốc. Do đó, sản lượng thép thô tháng 7 dự báo tăng khoảng 1 triệu tấn lên gần 152 triệu tấn.
NGUYÊN LIỆU THÔ
• Trong khi thị trường phế liệu ở Thổ Nhĩ Kỳ, cũng như Mỹ và Anh đã giảm giá tuần trước, thì các động thái ở châu Á lại hỗn loạn hơn.
Thị trường phế liệu nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đã kết thúc tuần qua với giá giảm , với các giao dịch từ Benelux chốt mức giảm so với tuần trước.Tháng 8 bắt đầu trì trệ sau khi một giao dịch Benelux được thiết lập ở mức giá mới thấp hơn về giá phế liệu của Châu Âu, khiến người bán ở một vị thế bế tắc đang chờ đợi mức giá mạnh hơn từ tháng 9.
• Tại thị trường Châu Á, thị trường phế liệu HMS Đông Á đã chứng kiến giá giảm do các giao dịch thấp hơn từ Mỹ tuần trước. Chào giá HMS 80:20 Mỹ là 352 USD/tấn CIF Hàn Quốc tuần trước, giảm 8 USD/tấn so với tuần trước.
Tại Việt Nam, giá phế liệu khối lượng lớn từ Hong Kong vẫn ổn định với một hợp đồng được ký kết hôm thứ Năm với giá 345 USD/tấn CNF Việt Nam cho số lượng lớn HMS I/II 50:50 có nguồn gốc từ Hong Kong.
Tại Nhật Bản, giá xuất khẩu phế liệu của Nhật Bản tiếp tục tăng trong tuần qua do nguồn cung phế liệu chặt chẽ hơn tại Nhật Bản. Các nhà máy Hàn Quốc đã chốt đơn hàng phế H2 Nhật tại mức 34.500 Yên/tấn FOB và 35.000 Yên/tấn FOB.
Dự báo giá phế thế giới sẽ diễn biến ổn định về cuối tháng 8 do tiêu thụ thép thường chậm vào hè và nguồn cung phế liệu tăng.
KẾT LUẬN:
Giá thép thế giới đang nhận được hỗ trợ từ:
_Sự điều tiết nguồn cung quá mức tại Trung Quốc thông qua các chính sách môi trường, giảm áp lực nguồn cung tới thị trường thế giới.
_Chính phủ các nước tiếp tục chú trọng thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng, kích cầu.
_ Chính sách thuế quan, các biện pháp tự vệ giúp thúc đẩy giá nội địa.
_ giá nguyên liệu thô tăng, gây áp lực tăng giá cho các nhà máy.
Tuy nhiên, giá cũng gặp áp lực do:
_Sự bất ổn liên quan tới thuế 25% Mỹ và biện pháp trả đũa của EU.
_ Căng thẳng thương mại gia tăng giữa Trung Quốc- Mỹ cũng như với các nước khác ảnh hưởng xấu đến các công ty thép.
_ Tiêu thụ vào hè suy yếu do yếu tố mùa vụ.
_ Bất ổn chính trị các nước.
Trong tháng 8, giá cả dự báo phần lớn ổn định tại các thị trường dựa trên sức mua ổn định, giá phế hầu như không đổi và cạnh tranh thương mại gia tăng giữa các nước cũng khiến hoạt động tiêu thụ chậm. Tuy nhiên, giá cả có thể tiếp tục tăng nhẹ ở Mỹ và EU nhờ các chính sách thuế và biện pháp tự vệ. Mức gia tăng dự báo vào khoảng 10-20 USD/tấn.
Thép dài còn gọi là thép xây dựng (sử dụng trong ngành xây dựng) như thép hình, thép thanh và thép cây.
Thép dẹt được sử dụng trong ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các máy móc thiết bị công nghiệp, bao gồm các loại thép tấm, lá, cán nóng và cán nguội.
Lưu ý: Dự báo trên chỉ mang tính tham khảo. Quý khách hàng nên tham khảo thêm nhiều nguồn tin khi quyết định mua bán.