THÉP DÀI
Thị trường thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã yếu do sự thận trọng liên tục giữa người mua và sụt giảm nhu cầu ngành xây dựng trong bối cảnh một nền kinh tế nhiều biến động. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ có nghĩa vụ phải xuất khẩu nhiều hơn nhưng đã thấy rằng nhu cầu ở châu Á trầm lắng do sự gia tăng cạnh tranh của các nước, bao gồm Qatar, Saudi Arabia, Ukraine và Belarus.
Giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ duy trì ổn định trong một thị trường yên tĩnh trong tuần qua mà không có giao dịch, tuy nhiên, với một chút tăng trong tâm lý thị trường sau khi mục sư người Mỹ Andrew Brunson đã được phóng thích từ Thổ Nhĩ Kỳ.
Thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ổn định trong bối cảnh thị trường chờ đợi động thái của Mỹ. Giá chào vẫn ổn định ở mức 505 USD - 510 USD/tấn FOB từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ, vì đây là mức do hầu hết người bán đặt ra để duy trì biên lợi nhuận. Hầu hết các nguồn tin cho thấy giá có thể giao dịch trong khoảng từ 495 - 499 USD/tấn FOB, với triển vọng không chắc chắn trong vài tuần tới.
Khối lượng xuất khẩu thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ đã hồi phục trong tháng 7 sau khi giảm 14,7% trong nửa đầu năm nay, khi các chuyến hàng sang Mỹ tăng trong suốt tháng, bất chấp mức thuế Mục 232 được áp dụng. Tuy nhiên, việc tăng gấp đôi thuế quan của Mỹ đối với hàng nhập khẩu thép Thổ Nhĩ Kỳ công bố vào giữa tháng 8 dự kiến sẽ đóng lại cách cửa xuất khẩu cho nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ sang nước này trong những tháng tới.
Với thị trường Mỹ đóng cửa với xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ, và châu Âu không mua nhiều, trọng tâm đã chuyển sang Đông Nam Á, được nghe nói là vẫn đang chủ động chào mua vật liệu Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng mặc dù khối lượng lớn xuất khẩu vào Đông Nam Á trong tháng 9 và tháng 10, chỉ có một vài giao dịch hạn chế cho tháng 11 được nghe cho đến nay. Hai thị trường xuất khẩu chính cho các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn là Yemen và Israel, trong khi tăng trưởng xây dựng và cơ sở hạ tầng dự kiến mạnh hơn ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hy Lạp cũng có nghĩa là nhu cầu cao hơn từ Nam Âu.
Dự báo giá xuất khẩu tháng 10 giảm khoảng 10-20 USD/tấn xuống 490-500 usd/tấn FOB.
Tại khu vực EU, giá thép dài châu Âu dự kiến sẽ tăng trở lại từ mức của tháng trước do giá đã mất trung bình khoảng 10 euro/tấn chủ yếu do áp lực nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ. Định giá thép cây hàng tuần của Platts đứng ở mức 545 euro/tấn, xuất xưởng Ruhr.
Trong khi đó thị trường thép cây ở Mỹ đã nằm trong một phạm vi hẹp nhất định suốt những tháng mùa hè, và vẫn duy trì tình trạng này vào đầu quý IV. Chào giá nhập khẩu vào Houston hiện được cho là ngang bằng với giá trong nước, nhưng các nhà máy vẫn chưa thực hiện bất kỳ thay đổi nào về giá giao dịch. Một số chào giá cho nguyên liệu nhập khẩu đã được nghe khoảng 35 USD/cwt (700 USD/st DDP) vào Houston.
Giá phế của Mỹ giảm trong tháng 8 và tháng 9 nhưng giá thép cây vẫn ổn định. Bây giờ, với phế đã tăng trở lại trong tháng 10 - tăng 20 đô la đối với prime và tăng 10 đô la đối với cut - có vẻ như cơ hội giá thép cây trong nước suy yếu đang giảm dần, đặc biệt với nhu cầu được nghe nói sẽ tăng trở lại vào cuối năm. Định giá hàng ngày của Platts cho thép cây Đông Nam tại 685-710 USD/st xuất xưởng. Định giá tuần của Platts cho thép cây Trung Tây vẫn ổn định tại 700-720 USD/st xuất xưởng.
THÉP DẸT
Nhu cầu đối với các sản phẩm thép dẹt đã khá hờ hững ở Mỹ, Châu Âu, trong những tuần gần đây với nhu cầu tiêu thụ không gây thuyết phục, sự không chắc chắn xung quanh giá cả và hàng nhập khẩu cạnh tranh hạn chế giá cả.
Việc “tăng giá” cho thị trường Mỹ dường như đã kết thúc với giá giảm khoảng 40 usd/st vào giữa tháng 8 và giữa tháng 9 do thu mua ít ỏi và chào giá cạnh tranh từ Hàn Quốc, đang cố gắng hoàn thành hạn ngạch xuất khẩu thép sang Mỹ. HRC ở vùng Trung Tây Mỹ trung bình 893,1 usd/st trong tháng 8 trước khi giảm xuống còn 864,7 usd/st trong nửa đầu tháng 9. Trong tuần thứ hai của tháng 9 giá HRC giảm xuống mức thấp nhất kể từ cuối tháng 3.
Giá thép cuộn cán nguội và mạ kẽm nhúng nóng của Mỹ cũng suy yếu do nhu cầu ngày càng ít hơn từ các phân khúc người dùng cuối và nỗ lực duy trì có đủ đơn đặt hàng. Các trung tâm dịch vụ ghi nhận ít nhu cầu hơn từ ngành ô tô với các nhà máy đang cố gắng che giấu “tin tức xấu về nhu cầu chậm lại của nhà sản xuất ô tô.
Thời gian giao hàng cho HRC tại các nhà máy của Mỹ hầu như không thay đổi vào ngày 17/9, trung bình 4,6 tuần, giảm từ 4,7 tuần báo cáo vào ngày 12/9. Thời gian giao hàng CRC ổn định tại 5,7 tuần, trong khi thời gian gioa hàng HDG chuyển sang 6,3 tuần, giảm từ 6,4 tuần vào ngày 12 tháng 9.
Các yêu cầu của khách hàng ở cả cấp nhà máy và trung tâm dịch vụ vẫn chưa được chuyển thành các đơn đặt hàng quan trọng, mở rộng cuộc tấn công của người mua thực tế trên thị trường tấm mỏng Mỹ.
Sự tăng giá của nhà máy cán dẹt trong nước đã có ích trong việc loại bỏ khỏi thị trường của một số giao dịch giá thấp hơn nhưng không thể khiến tăng giá cao hơn. Ít nhất một nhà máy mini đã có thể mở rộng thời gian giao hàng của mình sau khi nhận đơn đặt hàng với số lượng tích cực hơn, theo nhiều nguồn tin thị trường. Các nhà máy mini hiện nay được cho là có một trong những giá chào bán HRC cao nhất trên thị trường với giá 870-880 USD/st. Tuy nhiên, phần còn lại của thị trường HRC hiện giờ đã gần với mức 830-840 USD/st sau đợt tăng giá 40 USD/st. Giá cả không nhất thiết phải tăng lên nhưng giá chào bán ở mức dưới 800 USD đã bị loại khỏi bàn đàm phám, theo nguồn tin bên mua. Một nguồn tin cho biết đã chào giá HRC ở mức 850-860 USD/st trong tuần này và CRC ở mức 950 USD/st.
Dự báo giá HRC tháng 10 sẽ đạt đáy và duy trì ổn định hoặc tăng nhẹ 10 usd/st.
Tại thị trường Bắc Âu, thị trường thép cuộn cũng kém cỏi hơn với nhu cầu sau mùa hè chậm chạp do nhập khẩu cạnh tranh và hàng tồn kho ở mức cao. Các thương nhân thấy giá HRC là 510 euro/tấn (594,75 usd/tấn) CFR Antwerp trong tuần kết thúc ngày 19 tháng 9, nhưng mức này được coi là thấp hơn mức bình thường.
Nguyên vật liệu nhập khẩu dự kiến sẽ tăng thêm một số áp lực về giá, đặc biệt nếu nhu cầu trong nước không thay đổi. Một sự mất giá thêm nữa của Lira Thổ Nhĩ Kỳ đã thấy các nhà máy ở quốc gia đó tăng mức xuất khẩu của họ sang châu Âu. Các thương nhân Đức nhận xét rằng rất khó để đảm bảo nhập khẩu trong tháng 8, nhưng nói rằng các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ đang quay trở lại thị trường châu Âu với giá rẻ hơn sẽ làm cho giá cả rẻ hơn.
Các nhà nhập khẩu lo ngại về hạn ngạch tự vệ và phải chịu một khoản thuế 25% hoặc cất kho để chờ đợi hạn ngạch mới. Nhưng những nỗi sợ này đã giảm bớt và có vẻ như hạn ngạch có thể không được lấp đầy bởi giới hạn ngày 3 tháng 2. Dữ liệu Eurofer cho tháng 7 cho thấy hạn ngạch lớn vẫn mở trong từng loại thép cuộn.
Các nhà máy Ấn Độ cũng đã trở lại chào bán tại EU sau khi vắng mặt trong mùa hè, với các nhà máy mới được tái cấp vốn lớn tìm cách bán sau khi tăng sản lượng sản xuất.
Tại Nam Âu, các nhà sản xuất thép cuộn Italy đã được hưởng các nguyên tắc cơ bản tốt hơn, đặc biệt là nguồn cung thấp, và có thể giữ giá ổn định ở mức cao nhất trong phạm vi. Một số nhà cán lại lớn đã ngừng báo giá thời gian này và người mua có thể chờ đợi vì họ có đủ hàng tồn kho trong ít nhất vài tuần. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu giảm giá của họ, nhưng người mua muốn mức giá thậm chí còn thấp hơn. HRC từ các nhà máy của Italy được chào bán với giá xuất xưởng 550-560 euro/tấn (638-650 usd/tấn) trong những tuần gần đây.
Tại thị trường Nam Âu giá thép cuộn cán nóng của Italy đã giảm kể từ đầu tuần trước khoảng 15 euro/tấn do các nhà máy trong nước đã cố gắng cạnh tranh với hàng giá rẻ của Thổ Nhĩ Kỳ. Những người mua lớn của Italy, sau khi mua chủ yếu từ Thổ Nhĩ Kỳ, hiện đang muốn ở ngoài thị trường vì phương hướng cho giá quý 4 vẫn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, một số người bắt đầu nghĩ rằng giá gần đạt đáy. Một nhà máy cấp một châu Âu đưa ra giá giao dịch tại mức 570 euro/tấn giao tháng 12 trong khi một trung tâm dịch vụ tại Benelux thấy giá giao dịch ở 565 euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Trong khi đó tại thị trường Bắc Âu, hoạt động thu mua vẫn im ắng trong tuần này với những người mua đang chần chừ vì hầu hết những người tham gia thị trường đang háo hức chờ đợi hội chợ triển lãm Euroblech vào cuối tháng 10 tại Hanover của Đức để tìm kiếm một xu hướng giá. Các giá có thể giao dịch cho HRC ở Tây Âu nằm trong phạm vi 560-565 euro/tấn còn mức hiện tại cho CRC ở Bắc Âu được nghe khoảng 640-645 euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Chào giá từ Ấn Độ cho HRC đã được nghe tại 535-540 euro/tấn CIF Antwerp, trong khi các chào bán của Thổ Nhĩ Kỳ mới nhất đã được nghe ở khoảng 520 euro/tấn CIF Antwerp. CRC nhập khẩu đã được nghe thấy trong phạm vi giá CIF Antwerp là 610-620 euro/tấn.
Tuy nhiên mực nước thấp trên sông Rhine đã được hỗ trợ của giá thép cuộn xuất xưởng Ruhr, vốn đã duy trì tương đối ổn định trong tuần qua mặc dù giá ở Nam Âu tiếp tục di chuyển giảm hơn nữa. Chỉ số Platts TSI của cuộn cán nóng xuất xưởng Ruhr ở mức 561 euro/tấn (643,53 USD/tấn), giảm 6 euro kể từ ngày 1/10.
Dự báo giá HRC tháng 10 sẽ giàm 5-15 euro/tấn ở Bắc Âu và duy trì ổn định ở Nam Âu.
NGUYÊN LIỆU THÔ
Phế ferrous ở một số thị trường giao dịch phần lớn bị giới hạn trong tuần, khi giá thép thành phẩm tiếp tục trị trệ so với giá phế mạnh hơn.
Người mua và người bán đã được nhìn thấy trong tình trạng bế tắc vào đầu tuần, do nguồn cung khan hiếm tại các thị trường xuất khẩu khiến người bán phải kỳ vọng giá trên 330 USD/tấn CFR. Người mua tiếp tục kháng cự, nhắm mục tiêu giá khoảng 325 USD/tấn CFR hoặc thấp hơn trong bối cảnh giá thép thành phẩm thấp.
Hai thương vụ gốc Baltic và một thương vụ gốc Benelux đã phá vỡ sự im lặng của thị trường. Phế HMS 1/2 (80:20) trong hai thương vụ Baltic đã được mua tại mức 327,50 USD/tấn và 328 USD/tấn CFR, tương ứng, trong khi một nhà máy Iskenderun cũng mua HMS ½ (80:20) với mức 329 USD/tấn CFR, duy trì giá trong phạm vi hẹp trong tuần từ 328-329 USD/tấn CFR.
Tuy nhiên, triển vọng giá trong tương lai giữa những người tham gia thị trường vẫn chưa rõ ràng. Nguồn cung thắt chặt do chi phí thu gom cao ở châu Âu và giá chào cao từ các thương gia Mỹ, những người vắng mặt trên thị trường trong hơn hai tuần, đã khiến một số người tham gia thị trường kỳ vọng giá trên 330 USD/tấn CFR trong những ngày tới.
Mặt khác, giá thấp hơn có thể chiếm ưu thế nếu các nhà máy vẫn vắng mặt trên thị trường trong nỗ lực giảm giá để khiến cho giá phù hợp hơn với giá thép cây và phôi billet thấp hơn, các nguồn tin cho biết.
Trong khi đó, giá HMS bulk Đông Á vẫn không thay đổi trong tuần, do xu hướng thị trường tiếp tục đi ngang. Người mua và người bán duy trì quan điểm của họ về giá hỏi mua và chào bán, các nguồn tin khu vực cho biết.
HMS có nguồn gốc từ Mỹ được cung cấp trong khu vực với giá khoảng 363 USD/tấn CFR Hàn Quốc cho HMS 1, và khoảng 367 USD/tấn CFR Việt Nam cho HMS 1/2 80:20, các nguồn tin cho biết.
Một nhà máy lớn ở Hàn Quốc đã ký kết một thỏa thuận HMS 80:20 có nguồn gốc từ New Zealand với giá 354 USD/tấn CFR Hàn Quốc hôm thứ Sáu, đưa giá theo hướng đi ngang ổn định, một nguồn tin gần nhà máy cho biết.
Tại Việt Nam, triển vọng giảm giá của người mua đối với thị trường tiếp tục diễn ra trong tuần, do giá thép bán thành phẩm và thành phẩm vẫn chậm chạp.
"Một số lò nung cảm ứng nhỏ hơn ở miền Bắc (Việt Nam) đang xem xét ngừng sản xuất nếu giá phôi tiếp tục suy yếu. Họ không có đủ lợi nhuận, vì giá phế liệu tiếp tục ở mức cao", một thương nhân Việt Nam cho biết. “Những lò nung cảm ứng nhỏ hơn này cũng đang phải đối mặt với sự cạnh tranh trong thu mua phế địa phương khi các nhà máy lớn hơn đang áp dụng phương pháp mua thận trọng hơn cho phế nhập khẩu hoặc chờ giấy phép nhập khẩu của họ được mở rộng, đang chuyển sang thu nmua nhiều phế nội địa hơn."
Trong khi đó, chào bán từ Hồng Kông cho HMS 1/2 50:50 đang thịnh hành ở mức thấp hơn một chút là 349- 352 US/tấn CFR Việt Nam, các nguồn tin khu vực cho biết. Một lô bulk HSM 1/2 50:50 của Hong Kong đã được ký kết với miền Nam Việt Nam với giá 345 USD/tấn CFR, thứ Năm, giảm giá 3 - 5 USD/tấn trong tuần, so với các giao dịch giá cao hơn trong tuần trước đó.
Trong thị trường container, giá phế HMS tiếp tục giảm trong bối cảnh thị trường phôi thép "rất yếu" trong khu vực, nguồn tin thị trường cho biết.
Hôm thứ Sáu, một nhà máy lớn của Đài Loan đã ký một hợp đồng cho HMS 1/2 80:20 có nguồn gốc từ Mỹ với giá 328 USD/tấn CFR, với khoảng 1.000-2.000 tấn, người mua xác nhận. "Nhìn thấy giá chào bán yếu hơn (tuần này)", nguồn tin cho biết.
Thị trường phế dự báo sẽ tăng do nhu cầu và nguổn cung thắt chặt ở nhiều nơi, nên giá phế nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ đự báo đi ngang đến tăng 5-10 USD/tấn trong khi tại Châu Á giá cả ổn định. Thị trường phế Mỹ và châu Âu có thể đạt đáy và sẽ bắt đầu đi ngang tới tăng 10 USD/tấn trong tháng này.
SẢN LƯỢNG THÉP THÔ
Sản lượng thép thô thế giới trong tháng 8 tăng 2,6% so với cùng kỳ năm ngoái đạt 151,7 triệu tấn, Hiệp hội Thép thế giới cho biết. Sản lượng trong 8 tháng đầu năm 2018 tăng 4,7% lên 1,2 tỷ tấn.
Tổng sản lượng thép thô của Trung Quốc trong tháng 8 đạt 80,33 triệu tấn, tăng 2,7% so với năm ngoái. Tốc độ tăng trưởng hàng năm, tuy nhiên, giảm đáng kể từ mức tăng 7,2% và 7,5% được thấy trong tháng 7 và tháng 6. Trong tháng 1 đến tháng 8, sản lượng thép thô của Trung Quốc đạt 617,4 triệu tấn, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Sản lượng thép thô tại các nhà máy do các công ty thành viên thuộc Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc trung bình 1,972 triệu tấn/ngày trong 10 ngày đầu tháng 9, tăng 3,7% so với cuối tháng 8 và tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước. Con số này tiếp tục tăng 0,4% vào giữa tháng 8 và giảm 2,2% vào đầu tháng 8. CISA ước tính tổng sản lượng thép thô của Trung Quốc trong đầu tháng 9 đạt 2,51 triệu tấn/ngày, tăng 3,1% so với cuối tháng 8 và tăng 4,7% so với cùng kỳ năm ngoái.
Ấn Độ duy trì vị trí là nhà sản xuất thép lớn thứ hai thế giới trong tháng 8, tăng sản lượng 3,7% so với năm ngoái lên 8,8 triệu tấn. Sản lượng thép thô trong tháng 4 đến tháng 8 đạt 43,7 triệu tấn, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm ngoái do nhu cầu ổn định. Sản lượng cao hơn cũng được thấy đối với hot metal và gang thỏi ở Ấn Độ, lần lượt là 29,2 triệu tấn và 2,5 triệu tấn, tăng 7,4% và 10,9%. Tương tự, sản lượng thép thành phẩm đạt 52,8 triệu tấn trong tháng 4 tháng 8, tăng 3,4%. Nhu cầu về thép ở Ấn Độ dự kiến sẽ tăng trưởng hàng năm từ 10-11% trong ba năm tới nhờ vào xây dựng đang tăng trưởng.
Sản lượng thép thô của Nhật Bản tăng 0,9% so với cùng kỳ năm ngoái và 4,6% so với tháng trước lên 8,81 triệu tấn, theo Hiệp hội Sắt thép Nhật Bản. JISF trích dẫn nhu cầu trong nước ổn định khiến các nhà máy duy trì mức sản xuất cao. Sản lượng tháng 8 của Nhật Bản là 6,81 triệu tấn, tăng 0,5% so với năm ngoái và 7,2% so với tháng 7, trong khi sản lượng lò quang điện là 1,99 triệu tấn, tăng 2,2% so với năm ngoái nhưng giảm 3,5% so với tháng trước. Lò quang điện đã bị đóng cửa vào mùa hè để giảm điện năng tiêu thụ khi giá ở mức cao nhất, điều này giải thích sự sụt giảm sản lượng tại các nhà máy EAF, JISF cho biết.
Sản lượng thép thô tháng 8 của Thổ Nhĩ Kỳ giảm 5,7% so với cùng kỳ năm ngoái xuống còn 3 triệu tấn, thấp hơn đáng kể 8,2% so với tháng trước đó, theo Hiệp hội các nhà sản xuất thép Thổ Nhĩ Kỳ. Thép thô được sản xuất bởi EAFs giảm 6% so với cùng kỳ năm ngoái, xuống còn 2 triệu tấn, do nhu cầu sản phẩm trong nước chậm chạp, trong bối cảnh biến động tỷ giá mạnh, trong khi sản xuất bằng lò thổi vẫn giữ nguyên ở mức 1 triệu tấn.
Tại Mỹ, sản lượng thép tăng 5,1% so với cùng kỳ năm ngoái lên 7,46 triệu tấn trong tháng 8, tính từ đầu năm đến nay sản lượng đạt 56,9 triệu tấn, tăng 4% so với cùng kỳ năm 2017. Theo Viện sắt thép Mỹ, sản lượng thép thô đạt 1,86 triệu tấn trong tuần kết thúc vào ngày 22 tháng 9, trong khi công suất sử dụng gần 80% ở mức 79,5%. Con số này được so sánh với sản lượng là 1,71 triệu tấn và mức sử dụng 73,4% một năm trước đó.
EU đã đạt tổng sản lượng 12,6 triệu tấn trong tháng 8, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Một sự suy giảm 16,8% ở Pháp đã được bù đắp bằng mức tăng ở Đức (7,5%), Italy (6%) và Tây Ban Nha (6,6%).
Sản lượng thép thô tại CIS là ổn định. Sản lượng ở Ukraine là 1,8 triệu tấn, giảm 3,7%, trong khi sản lượng của Nga giảm 0,1% xuống còn 6,2 triệu tấn.
KẾT LUẬN:
Giá thép thế giới đang nhận được hỗ trợ từ:
- Sự điều tiết nguồn cung quá mức tại Trung Quốc thông qua các chính sách môi trường, giảm áp lực nguồn cung tới thị trường thế giới.
- Chính phủ các nước tiếp tục chú trọng thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng, kích cầu.
- Chính sách thuế quan, các biện pháp tự vệ giúp thúc đẩy giá nội địa.
- Giá nguyên liệu thô tăng, gây áp lực tăng giá cho các nhà máy.
Tuy nhiên, giá cũng gặp áp lực và biến động do:
- Sự bất ổn liên quan tới thuế 25% Mỹ và biện pháp trả đũa của EU.
- Căng thẳng thương mại gia tăng giữa Trung Quốc- Mỹ cũng như với các nước khác ảnh hưởng xấu đến các công ty thép.
- Đồng nội tệ các nước mất giá gây ra các vấn đề dòng tiền.
Dự báo giá thép tháng 10 phần lớn sẽ đi ngang tới giảm 5-10 usd/tấn tại các khu vực do tiêu thụ trì trệ, sự không chắc chắn trên thị trường dẫn tới giá cả sẽ biến động.
Thép dài còn gọi là thép xây dựng (sử dụng trong ngành xây dựng) như thép hình, thép thanh và thép cây.
Thép dẹt được sử dụng trong ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các máy móc thiết bị công nghiệp, bao gồm các loại thép tấm, lá, cán nóng và cán nguội.
Lưu ý: Dự báo trên chỉ mang tính tham khảo. Quý khách hàng nên tham khảo thêm nhiều nguồn tin khi quyết định mua bán.