THÉP DÀI
Thị trường thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã yếu do sự thận trọng liên tục giữa người mua và sụt giảm nhu cầu ngành xây dựng trong bối cảnh một nền kinh tế nhiều biến động. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ có nghĩa vụ phải xuất khẩu nhiều hơn nhưng đã thấy rằng nhu cầu ở châu Á trầm lắng do sự gia tăng cạnh tranh của các nước, bao gồm Qatar, Saudi Arabia, Ukraine và Belarus.
Nhu cầu của thép cây xuất khẩu và thép cây trong nước đang chững lại thị trường, trong khi các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn bị sức ép của lợi nhuận thấp trong doanh số tương lai do giá phế tiếp tục tăng. Giá cả có thể giao dịch là 500 USD/tấn FOB, trong khi tâm lý thị trường hầu như không thay đổi. Giá chào thép cây của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vào khoảng 505 USD/tấn FOB trong khi không có giá chào mua mới nào được nghe nói đến trên thị trường. Việc thiếu các giao dịch mới được dự kiến vì hầu như suốt như cả tháng 11 đã được đặt trong những tuần gần đây.
Thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ổn định trong bối cảnh thị trường chờ đợi động thái của Mỹ. Giá chào vẫn ổn định ở mức 505 USD - 510 USD/tấn FOB từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ, vì đây là mức do hầu hết người bán đặt ra để duy trì biên lợi nhuận. Hầu hết các nguồn tin cho thấy giá có thể giao dịch trong khoảng từ 495 - 499 USD/tấn FOB, với triển vọng không chắc chắn trong vài tuần tới.
Khối lượng xuất khẩu thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ đã hồi phục trong tháng 7 sau khi giảm 14,7% trong nửa đầu năm nay, khi các chuyến hàng sang Mỹ tăng trong suốt tháng, bất chấp mức thuế Mục 232 được áp dụng. Tuy nhiên, việc tăng gấp đôi thuế quan của Mỹ đối với hàng nhập khẩu thép Thổ Nhĩ Kỳ công bố vào giữa tháng 8 dự kiến sẽ đóng lại cách cửa xuất khẩu cho nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ sang nước này trong những tháng tới.
Với thị trường Mỹ đóng cửa với xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ, và châu Âu không mua nhiều, trọng tâm đã chuyển sang Đông Nam Á, được nghe nói là vẫn đang chủ động chào mua vật liệu Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng mặc dù khối lượng lớn xuất khẩu vào Đông Nam Á trong tháng 9 và tháng 10, chỉ có một vài giao dịch hạn chế cho tháng 11 được nghe cho đến nay. Hai thị trường xuất khẩu chính cho các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn là Yemen và Israel, trong khi tăng trưởng xây dựng và cơ sở hạ tầng dự kiến mạnh hơn ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hy Lạp cũng có nghĩa là nhu cầu cao hơn từ Nam Âu.
Dự báo giá xuất khẩu tháng 10 giảm khoảng 10-20 USD/tấn xuống 490-500 usd/tấn FOB.
Tại khu vực EU, giá thép dài châu Âu dự kiến sẽ tăng trở lại từ mức của tháng trước do giá đã mất trung bình khoảng 10 euro/tấn chủ yếu do áp lực nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ. Định giá thép cây hàng tuần của Platts đứng ở mức 545 euro/tấn, xuất xưởng Ruhr.
Trong khi đó thị trường thép cây ở Mỹ đã nằm trong một phạm vi hẹp nhất định suốt những tháng mùa hè, và vẫn duy trì tình trạng này vào đầu quý IV. Chào giá nhập khẩu vào Houston hiện được cho là ngang bằng với giá trong nước, nhưng các nhà máy vẫn chưa thực hiện bất kỳ thay đổi nào về giá giao dịch. Một số chào giá cho nguyên liệu nhập khẩu đã được nghe khoảng 35 USD/cwt (700 USD/st DDP) vào Houston.
Giá phế của Mỹ giảm trong tháng 8 và tháng 9 nhưng giá thép cây vẫn ổn định. Bây giờ, với phế đã tăng trở lại trong tháng 10 - tăng 20 đô la đối với prime và tăng 10 đô la đối với cut - có vẻ như cơ hội giá thép cây trong nước suy yếu đang giảm dần, đặc biệt với nhu cầu được nghe nói sẽ tăng trở lại vào cuối năm. Định giá hàng ngày của Platts cho thép cây Đông Nam tại 685-710 USD/st xuất xưởng. Định giá tuần của Platts cho thép cây Trung Tây vẫn ổn định tại 700-720 USD/st xuất xưởng.
THÉP DẸT
Nhu cầu đối với các sản phẩm thép dẹt đã khá hờ hững ở Mỹ, Châu Âu, trong những tuần gần đây với nhu cầu tiêu thụ không gây thuyết phục, sự không chắc chắn xung quanh giá cả và hàng nhập khẩu cạnh tranh hạn chế giá cả.
Các nhà máy Mỹ đã tăng giá lên cho các nỗ lực tăng giá đối với các sản phẩm tấm mỏng đã gần như không hỗ trợ được gì để thúc đẩy triển vọng giá cho quý tư. Việc tăng giá chỉ thành công trong phạm vi giúp nâng mức sàn trên các khoản giảm giá dựa trên trọng tải. Trước khi tăng, các giao dịch trọng tải lớn hơn đã xảy ra ở mức 760-780 USD/st nhưng chào giá dưới 800 USD/st đã không có sẵn trong 10 ngày qua. Giá giao dịch HRC nằm giữa 810 USD/st và 850 USD/st.
Dự báo giá HRC tháng 10 sẽ đạt đáy và duy trì ổn định hoặc tăng nhẹ 10 usd/st.
Tại Châu Âu,người mua tấn mỏng chần chừ trong những tuần gần đây đang chờ hướng dẫn giá nửa đầu năm 2019 từ các doanh nghiệp lớn, với nhiều người từ chối đưa ra bảng giá 2019 trước hội chợ thương mại EuroBLECH hai năm một lần tổ chức tại Hanover Đức trong tuần này. Giá CRC đã giảm trong tháng qua với định giá CRC của Platts ở mức 631,50 euro/tấn xuất xưởng Ruhr hôm thứ Tư, giảm từ 648,50 euro/tấn vào ngày 24 tháng 9. Mực nước trên sông Rhine tại Duisburg-Rurhort đứng ở 154cm tối thứ Tư và được dự báo sẽ giảm xuống còn 148cm vào chiều Chủ nhật, theo WSV (Cơ quan vận tải và đường thủy Đức). Chỉ số HRC Platts TSI được tính thấp hơn trong hôm thứ Tư tại 556,50 euro/tấn (633,63 USD/tấn) xuất xưởng Ruhr, giảm 3,00 euro từ thứ Ba và từ 569,00 euro/tấn vào ngày 24 tháng 9.
Giá HRC của Italy đang tiếp tục đà suy giảm chậm trong bối cảnh nhu cầu thấp và nhập khẩu giá rẻ trên thị trường với nhiều mức giá khác nhau và các nhà máy trong nước chính thức báo giá ở mức khoảng 510-520 euro/tấn cơ bản xuất xưởng. Một số giao dịch được báo cáo là chốt dưới mức 500 euro/tấn, mặc dù là cho số lượng lớn và khách hàng lớn cụ thể. Thổ Nhĩ Kỳ đang chào bán tại các cảng Italy là 490-510 euro/mt CFR cho đơn đặt hàng 5.000 tấn và giao hàng tháng 11. Giá CRC và HDG cũng giảm với chào giá của các nhà máy trong nước lần lượt ở mức khoảng 600-600 euro/tấn cơ bản xuất xưởng và 600-610 euro/tấn cơ bản xuất xưởng. Thổ Nhĩ Kỳ nghe nói đang chào bán với giá khoảng 580 euro/tấn CFR và 600 euro/tấn CFR tại các cảng Italy.
Dự báo giá HRC tháng 10 sẽ giàm 5-15 euro/tấn ở Bắc Âu và duy trì ổn định ở Nam Âu.
NGUYÊN LIỆU THÔ
Xu hướng giá phân kỳ đã được nhìn thấy trong các thị trường phế toàn cầu trong tuần trước khi giá di chuyển mạnh hơn ở Thổ Nhĩ Kỳ ngược lại với giá thấp hơn tại thị trường châu Á.
Tại thị trường nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ, một loạt các giao dịch đã phá vỡ sự ổn định giá đã thấy trong vài tuần qua dưới tại mức dưới 330 USD/tấn CFR.
Khi các nhà cung cấp Mỹ tái nhập vào thị trường này sau 3 tuần vắng mặt, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã mua nguyên liệu cho cả tháng 11 và tháng 12 từ cả ba khu vực biển sâu với mức giá dao động từ 332 USD/tấn đến 334 USD/tấn cho HMS 1/2 ( 80:20) CFR.
Các vấn đề hậu cần liên quan đến thu gom phế, đặc biệt là trên lục địa châu Âu, buộc một số nhà máy chấp nhận các lô hàng tháng 12 mà ban đầu họ đã hoi mua các lô hàng tháng 11, với một số lô hàng tháng 11 còn lại được mua với giá cao hơn một chút.
Một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn dự kiến sẽ mua hàng trong những ngày tới, trong khi nguồn cung sẵn có vẫn còn hạn chế, sẽ hỗ trợ giá trong tuần này, một số nguồn tin cho biết.
Trong khi đó tại khu vực châu Á, giá chào bán phế bulk có nguồn gốc từ Mỹ đã tăng lên mức 357 USD/tấn CFR trên cơ sở HMS I vào tuần trước, giảm 6 USD/tấn so với tuần trước đó, nhưng quan tâm của người mua chỉ ở mức 350 USD/tấn CFR hoặc thấp hơn trên cơ sở HMS I, giảm 5 USD/tấn so với giá đặt mới nhất của Hyundai Steel, các nguồn tin cho biết.
Giá chào bán HMS I/II 80:20 của Mỹ cho Việt Nam giảm xuống còn 360 USD/tấn CFR, giảm so với mức 367 USD/tấn của tuần trước, một nguồn tin từ một nhà máy phía nam Việt Nam cho biết.
Các chào bán HMS I/II 50:50 có nguồn gốc từ Hồng Kông vẫn giữ ở mức 350 USD/tấn CFR Việt Nam, nhưng quan tâm người mua chỉ ở mức 345 USD/tấn hoặc thấp hơn đối với các nhà máy miền nam, một thương nhân Hong Kong cho biết.
Một số giao dịch phế bulk có nguồn gốc từ Hồng Kông đã được ký kết vào thứ Năm tuần trước - với giá 345 USD/tấn CFR miền Nam Việt Nam cho 1.900 tấn HMS I/II 50:50; 350 USD/tấn CFR Bắc Việt Nam cho 3.000 tấn HMS I/II 50:50, và ở mức 356 USD/tấn CFR Bắc Việt Nam cho 3.200 tấn 95% HMS I/II 50:50 và 5% phế vụn, nguồn tin cho biết.
Trong thị trường phế liệu container, giá HMS tiếp tục xu hướng giảm trong tuần thứ ba, khi thị trường sản phẩm tiếp tục giảm, những người tham gia thị trường Đài Loan cho biết.
Giá chào bán container HMS I/II 80:20 của Mỹ đã đạt mức 325-330 USD/tấn CFR Đài Loan trong tuần, với một nhà máy lớn chốt thỏa thuận 1.000 tấn với giá 320 USD/tấn CFR Đài Loan vào thứ Sáu, các nguồn tin thu mua kinh doanh của Đài Loan cho biết.
Thị trường phế dự báo sẽ tăng do nhu cầu và nguổn cung thắt chặt ở nhiều nơi, nên giá phế nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ đự báo đi ngang đến tăng 5-10 USD/tấn trong khi tại Châu Á giá cả ổn định. Thị trường phế Mỹ và châu Âu có thể đạt đáy và sẽ bắt đầu đi ngang tới tăng 10 USD/tấn trong tháng này.
SẢN LƯỢNG THÉP THÔ
Sản lượng thép thô toàn cầu đạt 151,7 triệu tấn trong tháng 9, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm ngoái, Hiệp hội Thép thế giới World Steel Association said cho biết.
Sản lượng của châu Á trong tháng 9 là 107,8 triệu tấn, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Sản lượng thép thô của Trung Quốc trong tháng 9 là 80,8 triệu tấn, tăng 7,5% so với tháng 9/2017.
EU đã sản xuất 13,95 triệu tấn thép thô trong tháng trước, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Đồng thời, sản lượng CIS giảm 2,6% còn 8,39 triệu tấn.
Sản lượng thép thô của Bắc Mỹ trong tháng 9 đạt 10 triệu tấn, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm ngoái, nhờ vào mức tăng 9% trong sản lượng của Mỹ lên 7,25 triệu tấn.
Sản lượng thép thô của Thổ Nhĩ Kỳ trong tháng 9 là 2,8 triệu tấn, giảm 5,9% so với tháng 9/2017.
Trong chín tháng đầu năm, sản lượng thép thô toàn cầu đã tăng 4,7% trong năm lên 1,35 tỷ tấn.
Với 946,8 triệu tấn, sản lượng thép của châu Á trong 9 tháng đầu năm tăng 5,5%. Sản lượng của Trung Quốc đạt 699,42 triệu tấn, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm ngoái.
EU đã sản xuất 128 triệu tấn thép thô trong ba quý đầu năm 2018, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sản lượng thép thô của Bắc Mỹ trong giai đoạn này là 89,7 triệu tấn, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Mỹ tăng 4,5%, lên 64,17 triệu tấn.
Sản lượng CIS đạt 76,2 triệu tấn trong chín tháng đầu năm, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm 2017.
Sản lượng thép thô của Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn này là 28,0 triệu tấn, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
KẾT LUẬN:
Giá thép thế giới đang nhận được hỗ trợ từ:
- Sự điều tiết nguồn cung quá mức tại Trung Quốc thông qua các chính sách môi trường, giảm áp lực nguồn cung tới thị trường thế giới.
- Chính phủ các nước tiếp tục chú trọng thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng, kích cầu.
- Chính sách thuế quan, các biện pháp tự vệ giúp thúc đẩy giá nội địa.
- Giá nguyên liệu thô tăng, gây áp lực tăng giá cho các nhà máy.
Tuy nhiên, giá cũng gặp áp lực và biến động do:
- Sự bất ổn liên quan tới thuế 25% Mỹ và biện pháp trả đũa của EU.
- Căng thẳng thương mại gia tăng giữa Trung Quốc- Mỹ cũng như với các nước khác ảnh hưởng xấu đến các công ty thép.
- Đồng nội tệ các nước mất giá gây ra các vấn đề dòng tiền.
Dự báo giá thép tháng 10 phần lớn sẽ đi ngang tới giảm 5-10 usd/tấn tại các khu vực do tiêu thụ trì trệ, sự không chắc chắn trên thị trường dẫn tới giá cả sẽ biến động.
Thép dài còn gọi là thép xây dựng (sử dụng trong ngành xây dựng) như thép hình, thép thanh và thép cây.
Thép dẹt được sử dụng trong ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các máy móc thiết bị công nghiệp, bao gồm các loại thép tấm, lá, cán nóng và cán nguội.
Lưu ý: Dự báo trên chỉ mang tính tham khảo. Quý khách hàng nên tham khảo thêm nhiều nguồn tin khi quyết định mua bán.