Giá cả vẫn trên đà giảm mạnh ở cả trong nước và xuất khẩu, dưới gánh nặng nhu cầu tiêu thụ thấp điểm và các đàn áp giá than từ Chính phủ, tâm lý thị trường bị áp lực từ các ca nhiễm covid gia tăng, cộng với quặng xuyên thủng mức 100 USD/tấn do các cắt giảm sản xuất thép. Tuy nhiên, các cắt giảm này cũng giúp hỗ trợ giá cả khỏi đà giảm sâu. Các thương nhân và nhà máy nhỏ đã tích cực chào bán xuất khẩu ở mức giá cạnh tranh hơn so với các nguồn khác.
DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG THÉP DÀI
Ngày càng nhiều thương nhân muốn giảm giá thép để chạy theo đơn hàng nhằm giảm thiếu mức lỗ vì lo ngại rằng nhu cầu thép cây có thể suy yếu hơn nữa khi mùa đông đến gần. Mùa đông năm nay được cho là sẽ lạnh hơn các năm trước do điều kiện thời tiết La nina. Nhiệt độ đang dần xuống thấp hơn bình thường tại các khu vực phía bắc.
Tại Thượng Hải, thép cây HRB400 giảm xuống 4,900 NDT/tấn, mất 220 NDT/tấn so với tuần trước. Giá thép cây giao sau tháng 1 giảm mạnh 430 NDT/tấn xuống 4,226 NDT/tấn.
Giá cả gặp áp lực giảm mạnh từ các yếu tố sau:
_Giá than luyện cốc và than nhiệt điện giảm mạnh sau khi cơ quan hoạch định kinh tế chính của Trung Quốc NDRC cho biết giá than vẫn cao hơn nhiều so với mức chi phí của các mỏ. Cơ quan cho biết giá nhiệt điện trong nước đã giảm gần 1,000 NDT/tấn (156 USD/tấn) trong tuần qua. Giá than luyện cốc giao sau và than nhiệt liên tục giảm ở mức giới hạn tối đa hàng ngày.
_Trung Quốc đã báo cáo 92 trường hợp Covid-19 đại lục ngày thứ hai, và thêm 71 trường hợp Covid ngày thứ ba. Làn sóng này đã lan rộng đến 16 tỉnh với số ca tích lũy tăng lên hơn 400 kể từ khi vụ bùng phát bắt đầu ở Tây An vào ngày 17/10.
_Thời tiết lạnh được dự báo cho hầu hết các khu vực ở Trung Quốc, tập trung sự chú ý vào hoạt động xây dựng chậm lại trong mùa đông. Tồn kho thép cây và thép cuộn tăng 100,000 tấn trong tuần này so với mức giảm 100,000 tấn của tuần trước.
Giá trong nước giảm mạnh xuống dưới mức 765-785 USD/tấn tại các thành phố lớn của miền bắc Trung Quốc và miền đông Trung Quốc, dẫn tới các thương nhân và nhà máy xuất khẩu cũng mạnh tay giảm giá chào, xuống còn mức 830-850 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết sau khi giá nội địa ổn định. Các nhà sản xuất ở đông bắc Trung Quốc có khả năng tăng nguồn cung sang thị trường đường biển vì nhu cầu thép xây dựng thường sẽ dừng lại vào tháng 12.
Bộ sinh thái và môi trường Trung Quốc đã công bố kế hoạch kiểm soát ô nhiễm mùa đông cuối cùng, yêu cầu các nhà máy hạn chế sản xuất đến hết tháng 3 ở nhiều khu vực hơn. Số lượng khu vực được thêm vào kế hoạch 2 + 26 thành phố địa phương ban đầu ở các tỉnh Giang Tô và An Huy phía đông Trung Quốc, các khu vực bắc Hà Bắc, bắc Sơn Tây, đông và nam Sơn Đông, và nam Hà Nam. Điều này có thể hỗ trợ giá phần nào.
DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG THÉP DẸT
Sự hoảng loạn đang gia tăng giữa các nhà giao dịch đang chịu thiệt hại đáng kể ở mức giá hiện tại, nhưng có những lo ngại về việc nắm giữ hàng dự trữ nếu giá giảm hơn nữa. Những người tham gia thị trường ngày càng tránh xa khi họ chờ đợi các dấu hiệu ổn định. Tỷ suất lợi nhuận của HRC là khoảng 200 NDT/tấn đối với các nhà máy.
Tại thị trường giao ngay, giá HRC Q235B tại Thượng Hải giảm 300 NDT/tấn so với tuần trước xuống 5,000 NDT/tấn. HRC kỳ hạn tháng 1 giảm 450 NDT/tấn so với tuần trước xuống còn 4,614 NDT/tấn. Tồn kho HRC do các thương nhân và nhà máy nắm giữ đã giảm khoảng 20,000 tấn trong tuần này, chậm hơn so với mức giảm hơn 120,000 tấn của tuần trước, cho thấy nhu cầu vẫn còn yếu, nhưng sản lượng của các nhà máy đã tăng so với tuần trước.
Nhu cầu chậm trong bối cảnh tâm lý thị trường suy yếu đẩy tồn kho thép gia tăng. Tồn kho HRC do các thương nhân và nhà máy nắm giữ đã giảm khoảng 20,000 tấn trong tuần này, chậm hơn so với mức giảm hơn 120,000 tấn của tuần trước, cho thấy nhu cầu vẫn còn yếu, nhưng sản lượng của các nhà máy đã tăng so với tuần trước.
Trên thị trường xuất khẩu, một nhà máy ở phía đông Trung Quốc đã giảm giá chào xuống 70 USD/tấn, còn 800 USD/tấn fob Trung Quốc cho HRC SS400 sau khi các thương nhân và các nhà máy khác cắt giảm giá chào xuống còn 810-860 USD/tấn fob Trung Quốc.
Các thương nhân chào bán HRC mạnh mẽ ở mức 880-890 USD/tấn cfr Pakistan sau khi chốt các giao dịch ở mức 915 USD/tấn cfr vào tuần trước. Người mua Pakistan đặt giá thấp hơn ở mức khoảng 860 USD/tấn cfr vì họ kỳ vọng giá sẽ giảm nhiều hơn.
Một số thương nhân đã chào bán thép cuộn SAE vào Thổ Nhĩ Kỳ với giá khoảng 915 USD/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ, tầm 835 USD/tấn fob Trung Quốc. Nhưng không có giao dịch nào được nghe thấy.
Chào bán HRC SAE từ các thương nhân về Việt Nam giảm xuống 845-855 USD/tấn cfr. Một nhà máy đã bán 30,000 tấn HRC SAE về Việt Nam ở mức giá 850 USD/tấn cfr.
Chào bán thấp từ Trung Quốc đang tác động lan rộng tới các nước khác, khiến họ rút lui vì không thể cạnh tranh dựa vào giá nội địa mạnh. Người mua đường biển lo ngại và chờ đợi giá Trung Quốc giảm thêm.
TRIỂN VỌNG GIÁ NGẮN HẠN
Giá thép Trung Quốc dự kiến sẽ theo xu hướng giảm về cuối năm, nhưng giá cả biến động nhờ các cắt giảm sản xuất, hạn chế dư địa giảm.
Yếu tố hỗ trợ gồm:
_Sản lượng thép giảm.
_ Giá thế giới ở mức cao.
_Chi phí năng lượng tăng.
_Nhu cầu dần hồi phục tại các thị trường người mua Châu Á sau đợt dịch.
Yếu tố trở ngại:
_ Chính phủ hạ nhiệt giá nguyên liệu thô.
_Cắt giảm sản lượng kéo giá nguyên liệu thô giảm.
_Tiêu thụ giảm vào mùa thấp điểm.
_Dịch bệnh, thiếu điện làm giảm hoạt động sản xuất.
Dự kiến chào giá xuất khẩu HRC Trung Quốc giảm và sôi nổi hơn trong tháng 11 do giá trong nước giảm, nhưng được hỗ trợ phần nào từ giảm sản xuất trong nước.
Chào bán hiện tại cho HRC SAE từ các nhà máy nhỏ và thương nhân đã xuống 850 USD/tấn cfr Việt Nam và sẽ còn giảm nữa trong tháng 11 này, dự kiến mất thêm tầm 20-30 USD/tấn, song có thể phục hồi nhẹ vào tháng 12 lên khoảng 880-900 USD/tấn cfr khi sản lượng nội địa giảm và nhu cầu trở lại.
SẢN LƯỢNG
Dữ liệu chính thức của Cơ quan Thống kê Quốc gia Trung Quốc (NBS) cho thấy sản lượng thép thô của Trung Quốc trong tháng 9/2021 chỉ đạt 73.75 triệu tấn, sụt giảm mạnh 11.4% so với hồi tháng 8 trước đó và giảm tới 21.2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Con số trên cũng là mức sản lượng thép thô thấp nhất kể từ hồi tháng 12/2018 đến nay. Sản lượng gang trong tháng 9/2021 của Trung Quốc cũng giảm mạnh 16.1% so với cùng kỳ năm 2020, xuống còn 65.19 triệu tấn. Tuy nhiên, dữ liệu cũng cho thấy tính chung 9 tháng đầu năm nay, sản lượng thép thô của Trung Quốc đã đạt 806 triệu tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Hoạt động sản xuất thép của Trung Quốc trong thời gian qua đã chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi tình trạng thiếu hụt nguồn cung điện diện rộng và các biện pháp cắt giảm lượng phát thải khí nhà kính. Công suất hoạt động của các nhà máy sản xuất thép sử dụng công nghệ lò hồ quang điện tại Trung Quốc trong tháng 9 vừa qua chỉ đạt 60%, thấp hơn nhiều so với mức 80% cùng kỳ năm ngoái.
Trong khi đó, công suất hoạt động của các nhà máy sử dụng công nghệ lò cao chỉ đạt 73%, thấp hơn mức 88% ghi nhận hồi tháng 9/2020.
Do sản lượng 9 tháng đầu năm đã tăng 2% so với cùng kỳ năm ngoái nên với mục tiêu giữ sản lượng không quá 1.065 tỷ tấn năm 2020, nước này sẽ mạnh tay cắt giảm hơn nữa về cuối năm. Sản xuất cũng bị ảnh hưởng do thiếu điện nên dự kiến về dưới mức 70 triệu tấn trong tháng 10.
QUẶNG SẮT
Giá quặng sắt đường biển biến động và giảm mạnh tuần này, xuyên thủng mức 100 USD/tấn do các cắt giảm sản xuất tăng cường tại Trung Quốc trong khi hàng dự trữ gia tăng.
Giá quặng sắt đường biển đã giảm 7.2% trong ngày 2/11, tương đương 7.40 USD/tấn xuống 95.30 USD/tấn cfr thanh đảo, mức thấp nhất trong vòng 1 năm rưỡi qua trước khi phục hồi gần 4 USD/tấn lên 99.20 USD/tấn cfr vào ngày 3/11. Giá cả đã xuống dưới mốc 100 USD/tấn lần đây nhất là hồi tháng 6/2020 khi giá chạm mức 98.85 USD/tấn.
So với mức đỉnh hồi tháng 5 ghi nhận mốc 235.55 USD/tấn, giá hiện tại đã giảm 140 USD/tấn.
Thành phố Đường Sơn phía Bắc Trung Quốc đã ban hành cảnh báo ô nhiễm cấp độ II từ ngày 27/10, yêu cầu các nhà máy hạn chế sản xuất, với ngày kết thúc sẽ được đưa ra sau. Đường Sơn sẽ hạn chế các lò cao, đơn vị thiêu kết và bộ chuyển đổi ở các tỷ lệ khác nhau cho các nhà máy thép khác nhau.
Một thương nhân có trụ sở tại Thượng Hải cho biết: “Sản lượng hạn chế đã làm giảm tâm lý thị trường và sự quan tâm mua của các nhà máy thép.”
Cung tăng tại các cảng cũng đã đẩy dự trữ quặng sắt tăng lên kể từ tháng 7. Tồn kho vào cuối tháng 10 là hơn 144 triệu tấn. Tính đến ngày 1/11, dự trữ quặng sắt tại 45 cảng Trung Quốc đạt 146.5 triệu tấn.
Xét về triển vọng dài hạn tới cuối năm, giá biến động giảm. Vì sao:
_ do sản xuất thép của Trung Quốc cắt giảm mạnh hơn nữa trong thời gian còn lại của năm, làm giảm nhu cầu quặng.
_thị trường bất động sản chậm lại trong Q4 làm giảm nhu cầu thép xây dựng, giảm quặng sắt.
_nguồn cung quặng dần tăng trở lại sau khi gián đoạn năm qua do thiên tai, tai nạn vỡ đập.
_tâm lý thị trường suy yếu từ các động thái hạ nhiệt giá hàng hóa Chính phủ.
Giá cuối năm về tầm 95-97 USD/tấn.
Thép dài còn gọi là thép xây dựng (sử dụng trong ngành xây dựng) như thép hình, thép thanh và thép cây.
Thép dẹt được sử dụng trong ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các máy móc thiết bị công nghiệp, bao gồm các loại thép tấm, lá, cán nóng và cán nguội.
Lưu ý: Dự báo trên chỉ mang tính tham khảo. Quý khách hàng nên tham khảo thêm nhiều nguồn tin khi quyết định mua bán.