THÉP DÀI
• Thị trường thép cây Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tiếp tục ổn định do đang tiến vào mùa tiêu thụ thấp điểm ở cả trong nước và xuất khẩu nên khó để tăng giá dù giá phế tăng nhẹ. Bên cạnh đó, giá phôi thanh đang suy yếu nên phế tăng giá chưa đủ lực để củng cố giá thép cây.
Giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 510-525 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ trọng lượng thực tế. Tuy nhiên, mức 510-515 USD/tấn FOB là giá giao dịch sàn, không phải được tất cả các nhà máy chấp nhận. Giá chào mua tầm 505 USD/tấn FOB và người mua giữ vững chào giá.
Thị trường Mỹ vẫn khó khăn cho các nhà xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ với các khách hàng trong nước sẵn sàng trả 570-575 USD/tấn CFR so với giá chào 580 USD/tấn CFR Houston.
Tiêu thụ nhìn chung vẫn chậm chạp nên giá chưa thể tăng cho tới cuối năm khi người mua tăng đặt hàng để tích trữ. Trong tháng 12, giá sẽ nhích lại 10-20 USD/tấn lên 530-540 USD/tấn FOB.
• Thị trường thép cây Midwest tiếp tục ổn định do không có nhiều giá chào nhập khẩu dựa vào điều tra 232 của Chính phủ. Giá phế tháng này ổn định nên các thông báo tăng giá thêm 20 USD/tấn của Gerdau và CMC hồi cuối tháng 9 không được các nhà máy khác hưởng ứng.
Giá nhập khẩu thép cây vào Mỹ tăng nhưng hoạt động giao dịch chậm do giá chào nhập khẩu cao hơn giá nội địa trong vài trường hợp nên không thu hút. Trong khi đó, nguồn cung thép có sẵn của các nhà máy đang tăng và giá chào trong nước ổn định ở mức 560-570 USD/tấn.Tình hình thời tiết đang xấu đi, khiến tiêu thụ thép suy yếu nhưng với phế ổn định sẽ giúp giá ổn định trong ngắn hạn. Khả năng người mua sẽ tăng đặt hàng trước khi tình hình tệ hơn, giúp giá nhích lại 10-20 USD/tấn vào cuối năm, lên 570-590 USD/tấn.
• Các nhà máy thép cây Nam Âu đặt mục tiêu tăng giá dựa vào chi phí phế tăng và đơn hàng tốt. Việc công bố giấy phép nhập khẩu từ Algeria cũng như tiêu thụ mạnh hơn ở Nam Âu có lợi cho các nhà máy Châu Âu nói chung và Ý và Tây Ban Nha nói riêng đang bán mạnh vào Đức và Pháp trước khi giá tăng. Giá phế tăng 5-10 Euro/tấn cũng giúp người bán lạc quan hơn.
Tuy nhiên, vấn đề vẫn còn sau khi Chính phủ Algeria công bố quy định nhập khẩu mới yêu cầu các nhà nhập khẩu phải có khoản tiền tạm ứng tại ngân hàng bằng 120% tổng giá trị lô hàng nhập khẩu vào thời điểm đăng ký. Một khi hai bên đồng ý giao dịch thì các nhà xuất khẩu phải đợi ít nhất 30 ngày trước khi vận chuyển hàng hóa.
Giá thép cây xuất khẩu được chào bán tại mức 490 Euro/tấn FOB, với phí vận chuyển 22-23 Euro/tấn cũng như lợi nhuận thương nhân và chi phí sản xuất (4-5 Euro/tấn và 2-3 Euro/tấn).
Trong tháng 12 người mua sẽ tăng đặt hàng để tích trữ, cộng với xuất khẩu giảm từ Trung Quốc giúp giá thép cây xuất khẩu EU tăng 10-20 Euro/tấn lên 500 Euro/tấn FOB.
• Giá thép cây và dây CIS suy yếu trong tháng trước do tiêu thụ chậm chạp và phôi thanh giảm giá , nhất là thép cây. Giá phôi thanh Biển Đen giảm từ 490 Euro/tấn FOB đầu tháng 10 xuống 455 USD/tấn FOB trong ngày thứ năm.
Giá thép dây và cây suy yếu mạnh, với giá thép dây là 495-500 USD/tấn. Chào giá cho thép dây tháng 12 tầm 540-550 USD/tấn CIF (510-520 USD/tấn FOB Biển Đen) nhưng không thực tế.
Một nhà máy CIS hy vọng bán được giá 500-505 USD/tấn FOB Biển Đen cho đơn hàng tháng 12-giữa tháng 1 nhưng các khách hàng từ chối và muốn giá dưới 500 USD/tấn.
Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ nội địa dự báo tăng vào cuối năm với Chính Phủ tăng đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng cho cuộc bầu cử Tổng thống tháng 3 tới. Đầu tư tiếp tục vào World Cup FIFA 2018 cũng giúp ích cho các nhà máy thép cây Nga trong thời gian tới,giúp giá tăng lại 10-20 USD/tấn lên 500-510 USD/tấn FOB.
THÉP DẸT
• Giá HRC nội địa và xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục giảm do các nhà máy giảm giá để cạnh tranh với hàng nhập khẩu CIS. Các nhà máy CIS chào bán tại mức 555-565 USD/tấn CFR trước đó đã giảm xuống 540-550 USD/tấn CFR.
Giá chào từ các nhà máy cán nóng Thổ Nhĩ Kỳ giảm xuống 555-565 USD/tấn xuất xưởng mặc dù một nhà tiêu thụ cuối lớn cho biết có thể thu được giá thấp hơn 10 USD/tấn so với mức này.
Cùng với chi phí HRC nội địa và nhập khẩu giảm, một nhà máy lớn bắt đầu chào bán CRC tại mức thấp 635-645 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá niêm yết các nhà máy khác chỉ giảm nhẹ 5 USD/tấn xuống 655-665 USD/tấn xuất xưởng.
Giá chào CRC từ các nhà máy CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm xuống 585-600 USD/tấn CFR trong mấy ngày gần đây trong khi nguyên liệu Ba Lan vẫn chào ở mức 640 USD/tấn CFR tới Thổ Nhĩ Kỳ.
Do các nhà máy CIS đang cạnh tranh tìm kiếm thị trường vì bị EU chống bán phá giá nên có vẻ giá sẽ tiếp tục gặp áp lực cho thị trường Thổ Nhĩ Kỳ. Giá tiếp tục suy yếu 5-10 USD/tấn trong nửa cuối tháng 11 trước khi tăng lại 20-30 USD/tấn về cuối năm , lý do các nhà máy có thể thông báo tăng giá. Dự báo giá HRC ở khoảng 570-590 USD/tấn.
• Thị trường tấm mỏng Mỹ ổn định dù các đơn hàng lớn chốt giá thấp. Giá chào các nhà máy chủ yếu 620 USD/tấn nhưng có giá dưới 600 USD/tấn cho các đơn hàng lớn. CRC chào bán ở mức 810-820 USD/tấn nhưng giá dưới 800 USD/tấn tiếp tục được nghe trong tuần này.
Chênh lệch giá HDG nhập khẩu và nội địa Mỹ tiếp tục rút ngắn với nhiều người mua tỏ ra thờ ơ với hàng nhập khẩu. Nếu đã tính phí vận chuyển thì chào giá nhập khẩu chỉ thấp hơn giá trong nước 10 USD/tấn. Mức này không đủ để thu hút người mua nhập hàng nước ngoài về. Giá chào trong nước tầm 810-820 USD/tấn.
Cuộc điều tra 232 Mỹ cho hàng nhập khẩu vẫn chưa có kết quả song chắc chắn sẽ có trong những tháng cuối năm với khả năng chính quyền Mỹ dùng hạn ngạch hoặc thuế quan. Do đó, hàng nhập khẩu sẽ không gây áp lực cho giá thép. Trong khi đó, giá phế dường như đã chạm đáy và sức mua tăng lại những tháng cuối năm nên giá thép cuộn sẽ tăng trở lại khoảng 20-30 USD/tấn, về mức 630-650 USD/tấn vào cuối năm nay.
• Giá xuất khẩu HRC CIS giảm dù các nhà máy đã bình ổn giá chào vì nghĩ rằng thị trường đã chạm đáy.
Một nhà máy Nga đã bán HRC vào UAE với giá 550-555 USD/tấn CIF, tương đương 520 USD/tấn FOB. Đó là dành cho lô hàng nhỏ còn lô hàng lớn được giá giảm 10 USD/tấn. HRC Ukraina giao dịch ở mức 520 USD/tấn FOB CIS trong khi thép cuộn Nga giao tháng 1 ở mức 525-530 USD/tấn FOB.
Một thương nhân Châu Âu cho biết giá 520-530 USD/tấn FOB cho HRC Biển Đen còn CRC tầm 580 USD/tấn FOB.
Nhu cầu tiêu thụ từ Trung Đông vẫn còn thấp. Giá đang gặp áp lực giảm nhưng khả năng nguồn cung sẽ thiếu nếu các nhà máy dừng sản xuất bảo trì, do đó dự báo giá sẽ ổn định trở lại vào cuối tháng và nhích 10-20 USD/tấn trong tháng cuối năm do sức mua tăng, lên 550 USD/tấn FOB cho HRC và 600 USD/tấn FOB cho CRC.
• Các nhà máy thép cuộn Tây Âu dự định tăng giá thép cuộn thêm 20-30 Euro/tấn cho các đơn hàng mới. Tuy nhiên, biên độ giá rộng cho thấy các nhà máy có quan điểm khác nhau với dự báo giá đi từ ổn định tới tăng mạnh.
Trong số các nhà máy cấp 1 lớn, giá chào HRC chủ yếu ở mức 550 Euro/tấn, 560 Euro/tấn và 570 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr. Hàng nhập khẩu không còn là vấn đề vì rất ít chào giá và các thương nhân không thấy thu hút. Chào giá hiện tại chủ yếu đến từ Thổ Nhĩ Kỳ, Hàn Quốc và Ấn Độ.
Giá chào từ Ấn Độ vẫn ở mức 530-540 Euro/tấn CFR cho Bắc Âu và 505-510 Euro/tấn CFR Ý nhưng các nguồn tin đang chờ đợi các nhà máy Ấn Độ phản hồi.
Thị trường lạc quan nhất vẫn là HDG với các nhà máy cấp 1 ở Tây Âu thường chào giá 680 Euro/tấn xuất xưởng. Một nhà máy lớn chào bán các hợp đồng 6 tháng và năm tại mức 750 Euro/tấn, mức giá được xem là quá tham vọng vào lúc này.
Chính quyền EU vừa công bố thuế chống bán phá giá cho thép nhập khẩu nên trong thời gian tới hàng nhập khẩu sẽ giảm và sức mua tăng do người mua tăng đặt hàng trước năm mới nên dự báo các nhà máy sẽ tăng giá thêm 20-40 Euro/tấn đẩy giá lên 580-600 Euro/tấn xuất xưởng vào cuối năm ở Tây Âu.
SẢN LƯỢNG THÉP THÔ
Sản lượng thép thô 67 nước thành viên Hiệp hội thép thế giới đạt 141,4 triệu tấn trong tháng 9, tăng 5.6% so với cùng kỳ năm trước, nhưng giảm 2.3% so với tháng 8 và là mức sản lượng thấp nhất kể từ tháng 2 năm nay.
Nguyên nhân chính do các nhà máy sản xuất hàng đầu của Trung Quốc phải thực hiện cắt giảm sản xuất theo chiến dịch làm trong sạch bầu trời của Bắc Kinh đưa ra.
Sản lượng thép thô trên toàn thế giới của 66 quốc gia báo cáo đã đạt Sản xuất thép thô của Trung Quốc chiếm khoảng một nửa sản lượng thép thế giới, đứng ở mức 71.8 triệu tấn trong tháng 9, tăng 5.3% so với năm trước, nhưng giảm 3.7% so với tháng 8.
Nhật Bản đã vượt qua thách thức từ Ấn Độ để duy trì vị trí thứ hai trên thế giới với sản lượng tháng 9 là 8.6 triệu tấn, tăng 2% so với mức tăng 1.9% của Ấn Độ lên 8.2 triệu tấn.
Sản lượng của Liên minh châu Âu tăng 2.7% so với tháng 9/2016 lên 13.8 triệu tấn, tăng trưởng mạnh ở Đức (+ 8.1%) và Ý (+ 8.3%). Trong khi tại Thổ Nhĩ Kỳ, việc mua phế liệu mạnh đã được phản ánh trong sự tăng trưởng 13% trong sản lượng thép vì sản lượng tháng 9 đã đạt 3 triệu tấn.
Mỹ (+ 8.6%) tiếp tục đẩy sản lượng của Bắc Mỹ tăng lên 3.5% trong 9 tháng đầu năm lên 86.7 triệu tấn. Sản lượng Nam Mỹ tăng 7.2% trong năm lên 3.7 triệu tấn do tăng trưởng ở Brazil và Argentina.
Iran vẫn tiếp tục nổi lên với mức tăng trưởng 40.4% trong tháng 9 lên 2.2 triệu tấn, trong khi sản lượng của Châu Phi tăng 15% do sự tăng trưởng của Ai Cập.
Sản lượng của Nga tăng 5.8% so với cùng kỳ năm ngoái lên khoảng 6 triệu tấn, trong khi sản lượng của Ucraina giảm 0.8% lên 1.8 triệu tấn.
Dự kiến mùa đông năm nay, sản lượng của Trung Quốc sẽ còn giảm ít nhất 30 triệu tấn trở lên do Bắc Kinh tăng cường cuộc chiến chống sương mù đang gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Các chính sách giảm sản lượng của Trung Quốc sẽ bắt đầu từ tháng 11, nhưng có vài khu vực áp dụng sớm nên sẽ giúp sản lượng thép 3 tháng cuối năm giảm, kéo sản lượng thép thế giới giảm theo tầm 1-3 triệu/tháng. Sản lượng thép tháng tới tầm 135-138 triệu tấn và 133-135 triệu tấn vào tháng cuối năm.
NGUYÊN LIỆU THÔ
• Giá nhập khẩu phế vào Thổ Nhĩ Kỳ tăng nhẹ trở lại, đạt mức 310 USD/tấn CFR cho phế HMS I/II. Tuy nhiên, các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ đã đủ phế dự trữ nên không vội . Tỷ giá đồng tiền thay đổi sau khi Thổ Nhĩ Kỳ tuyên hố hoãn tất cả các dịch vụ visa không phải là nhập cư tại tất cả các cơ sở ngoại giao của Hoa Kỳ tại Thổ Nhĩ Kỳ cũng như giam giữ một lãnh sự quán của Mỹ vì các cáo buộc liên quan đến vụ đảo chính thất bại tại Thổ Nhĩ Kỳ năm ngoái.
• Giá xuất khẩu phế Nhật không đổi với các khách hàng vắng mặt khỏi thị trường cho tới khi Hyundai Steel dự thầu vào hôm thứ sáu.
Hyundai Steel đã chào mua phế H2 ở mức 30.500 Yên/tấn (272 USD/tấn) FOB, 34.500 Yên/tấn (308 USD/tấn) FOB cho Sindachi, và 33.500 Yên/tấn (299 USD/tấn) cho phế HS.
Trong khi đó, giá chào mua cao nhất cho phế H2 Nhật xuất khẩu từ Vịnh Tokyo cuối tháng 11 giảm 1.520 Yên/tấn so với mức cao nhất tháng trước.
Các thương nhân Nhật đang trả 30.000-30.500 Yên/tấn FAS cho phế H2 xuất khẩu từ phía đông, giảm nhẹ so với mức 30.500 Yên/tấn FAS trong ngày thứ tư.
• Thị trường phế HMS khối lượng lớn Châu Á đã chạm đáy trong bối cảnh giá phế thế giới tăng nhẹ.
Vài nhà máy Hàn Quốc thậm chí không còn chào giá và sẽ mua sớm khi giá tăng.
Chào giá cho phế A3 Nga ở mức 325 USD/tấn CFR Hàn Quốc trong khi giá mua vẫn ở mức 305 USD/tấn CFR Hàn Quốc.
Tại Việt Nam, một lô phế lớn Úc được chốt ở mức 330 USD/tấn CFR Việt Nam trong ngày 02/10. Tuần này, chào giá ở mức 330-335 USD/tấn CFR Việt Nam trong khi giá chào mua chỉ 315-320 USD/tấn CFR.
Đối với phế mua gần, chào giá từ Hồng Kông cho phế HMS I/II 50:50 là 315 USD/tấn CFR Việt Nam trong khi giá mua chỉ 305-310 USD/tấn CFR Việt Nam.
Giá phế gặp áp lực từ tiêu thụ thấp và giá thép giảm cũng như nguồn cung tăng. Giá phế Mỹ hầu như ổn định trong tháng 11 này. Trong tháng cuối năm, giá thép tăng sẽ hỗ trợ giá phế tăng lại 10 USD/tấn.
KẾT LUẬN:
Giá thép thế giới chịu áp lực từ:
_Giá phế giảm
_Tâm lý không vững từ sự suy yếu trở lại của thép Trung Quốc.
_ Nhu cầu tiêu thụ chậm chạp do giá giảm.
Tuy nhiên, thị trường cũng nhận được động lực trợ giá:
_Chi phí nguyên liệu thô khác tăng mạnh như than điện cực, chất chịu nhiệt,…
_Tâm lý thị trường lạc quan dựa vào kế hoạch cắt giảm sản xuất cộng với giá thép Trung Quốc tăng mạnh gần đây.
_Nguồn cung thép thị trường giảm do các nhà máy bảo trì nhà xưởng.
_Mùa tiêu thụ cao điểm của ngành xây dựng cũng như gần tới thời điểm cuối năm nên người mua tranh thủ đặt hàng.
Dự báo giá thép thế giới chưa thể cải thiện trong tháng 11 này vì giá nguyên liệu thô giảm, tiêu thụ chậm chạp vào đông và xu hướng giá suy yếu tại Trung Quốc nhưng sẽ tăng lại 10-20 USD/tấn trong tháng cuối năm do Trung Quốc giảm sản lượng thép và giảm xuất khẩu ra các nước cũng như người mua tranh thủ đặt hàng.
Thép dài còn gọi là thép xây dựng (sử dụng trong ngành xây dựng) như thép hình, thép thanh và thép cây.
Thép dẹt được sử dụng trong ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các máy móc thiết bị công nghiệp, bao gồm các loại thép tấm, lá, cán nóng và cán nguội.
Lưu ý: Dự báo trên chỉ mang tính tham khảo. Quý khách hàng nên tham khảo thêm nhiều nguồn tin khi quyết định mua bán.