Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Xuất khẩu 2016 khó cán đích

 Ngay từ những tháng giữa năm 2016, khi xuất khẩu mới chỉ đạt 46,2% kế hoạch năm, người đứng đầu Bộ Công Thương đã phải thừa nhận, việc hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu của năm 2016 (10% như Quốc hội đề ra) là một nhiệm vụ khó khăn.

Xuất khẩu khó cán đích

Có thể thấy, sự khó khăn tiếp tục đeo bám ở những tháng sau đó và xuất khẩu vẫn chỉ duy trì ở mức tăng trưởng 7-7,5% mà không thể bứt phá. Đến hết tháng 11, xuất khẩu của cả nước chỉ đạt 159,5 tỷ USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ. Trong tháng 12, dự báo xuất khẩu sẽ không có tăng trưởng hay suy giảm đột biến so với tháng 11 (kim ngạch xuất khẩu đạt 15,6 tỷ USD). Điều này đồng nghĩa với việc đích tăng trưởng 10% càng khó chạm tới.

Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam đã phải thốt lên rằng, năm 2016 là năm khó khăn nhất với ngành dệt may trong 10 năm qua khi mức tăng trưởng chỉ ngấp nghé 5% (những năm trước ngành này có tốc độ tăng trưởng khá cao là trên 10%). “Chúng tôi thực sự khó khăn”, “ăn cháo còn hơn nhịn đói”, “ăn đong” là những chia sẻ của doanh nghiệp dệt may khi nói về năm 2016.

Không khó khăn về thị trường nhưng xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện - mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam năm 2016 - cũng không có nhiều dư địa khi mức tăng trưởng đã đến ngưỡng. Nếu xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện năm 2014 đạt 23,6 tỷ USD, năm 2015 là 30,6 tỷ USD thì đến năm 2016 con số này là trên 32 tỷ USD.

Tuy nhiên, trái ngược với con số giá trị tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng của mặt hàng này liên tục giảm dần từ đỉnh cao trên 30% xuống còn hơn 10% như năm 2016. Chỉ riêng mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện đã chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước nên chỉ cần một biến động nhỏ cũng khiến cho xuất khẩu chao đảo. Chẳng hạn, sự cố thu hồi sản phẩm Galaxy Note 7 của Samsung hồi tháng 9 đã khiến cho kim ngạch xuất khẩu của cả nước giảm đáng kể so với tháng 8 - thời điểm ra mắt sản phẩm này.

Ông Trần Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Công Thương cho biết, xuất khẩu trong năm 2016 còn gặp nhiều khó khăn do bất ổn chính trị tại các thị trường chủ lực làm giảm nhu cầu tiêu dùng, kéo theo giá giảm. Điển hình là nhóm hàng nông, thủy sản không được lợi về giá, do giá nông sản thế giới vẫn ở mức thấp. Mặt hàng gạo là một ví dụ. Theo đó, cả năm nay, xuất khẩu gạo luôn trong tình thế khó khăn, cạnh tranh gay gắt và trị giá xuất khẩu gạo giảm gần 18%, đồng thời giảm trên 20% về lượng.

Mặc dù chỉ đóng góp khoảng 2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng sự sụt giảm về giá của nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản là một khó khăn. Theo đánh giá của Bộ Công Thương, lượng xuất khẩu nhóm hàng này liên tục giảm trong một vài năm trở lại đây và điều này phù hợp với chủ trương giảm xuất khẩu khoáng sản thô. Tuy nhiên, việc giảm lượng xuất khẩu song song với giảm giá xuất khẩu đã khiến kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này sụt giảm mạnh.

Ví dụ, đối với mặt hàng than đá và dầu thô, lượng và giá xuất khẩu đều giảm mạnh. Trong đó than đá giảm trên 45% về lượng và trên 47% về giá trị, dầu thô giảm 20% về lượng và gần 40% về giá trị. Ngoài dầu thô, than đá, mặt hàng quặng và khoáng sản trong thời gian qua cũng giảm giá trị xuất khẩu so với năm 2015 dù lượng xuất tăng gấp đôi. Như vậy, chỉ tính riêng yếu tố giá giảm đã làm cho kim ngạch xuất khẩu của nhóm này giảm khoảng 1 tỷ USD.

Giá trị gia tăng thường nằm ở khâu cuối

Mặc dù bức tranh xuất khẩu của năm 2016 có phần ảm đạm, song theo PGS. TS Phạm Tất Thắng, Cố vấn cấp cao Viện Nghiên cứu thương mại (Bộ Công Thương), vẫn còn những điểm sáng đáng chú ý. Cụ thể, năm nay, xuất hiện một số mặt hàng tương đối mới có tốc độ tăng trưởng cao như rau quả tăng 30% so với năm 2015, vượt qua cả mặt hàng gạo; bánh kẹo kim ngạch chưa lớn nhưng đã được tách thành mặt hàng riêng, tăng 17%; thức ăn chăn nuôi tăng 17% trong khi xơ sợi dệt tăng 14%.

Ngoài ra, còn có những mặt hàng truyền thống có tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng như cà phê tăng 26%, hạt điều tăng 16%, tiêu tăng 16%.

Còn ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) nhận định, trong bối cảnh các nước xuất khẩu lớn khác cũng bị giảm sút về tốc độ tăng trưởng, việc Việt Nam vẫn duy trì được đà tăng trưởng ở mức 8% vẫn đáng ghi nhận.

“Tuy nhiên so với con số 10% đã đặt ra thì vẫn còn một khoảng cách. Hơn nữa, bên cạnh các con số thuần túy thì phải nhìn nhận giá trị chất lượng đằng sau những con số đó. Với giá trị xuất khẩu hiện nay, chúng ta đã thể hiện việc tiêu thụ tốt nông sản cho bà con, tạo thêm công ăn việc làm cho các doanh nghiệp trong khối sản xuất công nghiệp, điều đó cũng có giá trị rất lớn đằng sau con số 8%”, ông Hải nhận xét.

Nói về những giải pháp trong năm 2017, ông Trần Thanh Hải cho rằng hoàn toàn có thể kỳ vọng vào những hiệp định như Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU, hay Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực RCEP. Đây là những hiệp định thương mại có tính chất rất quan trọng, tương đương như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Điều quan trọng là phải có sự chuẩn bị để điều chỉnh hoặc tận dụng lợi ích mà các hiệp định này mang lại.

Ở một góc độ khác, theo ông Hải, bên cạnh việc mở rộng thị trường, cũng phải chú trọng đến việc điều chỉnh các ngành hàng. Hoạt động xuất khẩu không chỉ nhắm đến việc chiếm lĩnh thị trường mà phải chiếm lĩnh được các ngành hàng mà Việt Nam có lợi thế trên bản đồ thế giới.

Ví dụ, cách đây 5 năm, không ai nghĩ rằng Việt Nam sẽ là một điểm sáng trong làng công nghệ hoặc là cơ sở sản xuất điện thoại di động, thì bây giờ chúng ta đã có tên. Vì vậy, rất cần xác định lại và phát triển các ngành hàng có lợi thế.

Bên cạnh đó, theo ông Hải, trong thời điểm hiện nay, không ai sản xuất một sản phẩm từ đầu đến cuối. Khi đã hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu thì phải chấp nhận chỉ là một khâu trong đó. Nhưng vấn đề là sẽ tham gia từ khâu nào để thu được lợi ích tối đa và mang về giá trị nhiều nhất.

Những khâu trong thương mại quốc tế đem lại giá trị lớn thường nằm ở những khâu cuối như phân phối, thương hiệu, phát triển sản phẩm. Còn những khâu trồng trọt, chăn nuôi, chế biến, sản xuất cũng đem lại giá trị nhưng thường thấp hơn. Việc điều chỉnh tái cơ cấu các ngành kinh tế trong nước sẽ gắn rất chặt với chính sách về thương mại.

Mặt khác, ông Hải cho rằng, ở góc độ ngược lại, nhập khẩu cũng có tác dụng tốt nếu đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế cũng như đời sống, đặc biệt là các nguyên liệu. Nhập khẩu cũng kích thích việc tái cơ cấu kinh tế để chúng ta lựa chọn được các ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao nhất để sản xuất. Hiện nay, nhập khẩu về cơ bản cân bằng với xuất khẩu và góp phần bảo đảm chỉ số duy trì ổn định, đồng thời hỗ trợ cho các doanh nghiệp có các hoạt động gia công, từng bước tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu.

Nguồn tin: Chính phủ

ĐỌC THÊM