Xuất khẩu hàng hóa trong kỳ 1 tháng 8 đạt 14,44 tỷ USD, giảm 10,8% so với kỳ 2 tháng 7. Tuy nhiên, nếu so sánh với kỳ 1 các tháng 5 (-12,8), tháng 6 (-12%), tháng 7 (-11,4), thì mức giảm này đã được thu hẹp đáng kể…
Tính đến hết 15/8/2023, tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam đạt 209,43 tỷ USD.
Theo số liệu thống kê sơ bộ mới nhất vừa được Tổng cục Hải quan công bố, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong kỳ 1 tháng 8/2023 (từ ngày 01/8 đến ngày 15/8/2023) đạt 28,65 tỷ USD, giảm 3,5% (tương ứng giảm 1,03 tỷ USD) so với kết quả thực hiện trong nửa cuối tháng 7/2023.
Kết quả đạt được trong nửa đầu tháng 8/2023 đã đưa tổng trị giá xuất nhập khẩu của cả nước đến hết ngày 15/8/2023 đạt 402,61 tỷ USD, giảm 16,2%, tương ứng giảm 78,02 tỷ USD về số tuyệt đối so với cùng kỳ năm 2022.
Trong đó, tổng trị giá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 277,84 tỷ USD, giảm 16,2% (tương ứng giảm 53,62 tỷ USD).
Trong kỳ 1 tháng 8/2023, cán cân thương mại hàng hóa thặng dư 224 triệu USD. Tính từ đầu năm đến hết ngày 15/8/2023, cán cân thương mại hàng hóa thặng dư 16,26 tỷ USD.
Cụ thể, về xuất khẩu, trong kỳ 1 tháng 8/2023 đạt 14,44 tỷ USD, giảm 10,8% (tương ứng giảm 1,75 tỷ USD về số tuyệt đối) so với kỳ 2 tháng 7/2023.
Trị giá xuất khẩu kỳ 1 tháng 8/2023 giảm so với kỳ 2 tháng 7/2023 ở một số nhóm hàng sau: máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng khác giảm 406 triệu USD, tương ứng giảm 21%; điện thoại các loại giảm 387 triệu USD, tương ứng giảm 13,8%; sắt thép các loại giảm 190 triệu USD, tương ứng giảm 44,7%...
Như vậy, tính đến hết 15/8/2023, tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam đạt 209,43 tỷ USD, giảm 10,1% tương ứng giảm 23,5 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2022.
Trong đó, một số nhóm hàng giảm như: điện thoại các loại & linh kiện giảm 5,62 tỷ USD, tương ứng giảm 15,1%; hàng dệt may giảm 3,5 tỷ USD, tương ứng giảm 14,5%; máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng giảm 2,74 tỷ USD, tương ứng giảm 10%; gỗ & sản phẩm gỗ giảm 2,67 tỷ USD, tương ứng giảm 25,7%; giày dép các loại giảm 2,63 tỷ USD, tương ứng giảm 17,4%;... so với cùng kỳ năm 2022.
Trị giá xuất khẩu của một số nhóm hàng lớn lũy kế từ 01/01/2023 đến 15/8/2023 và cùng kỳ năm 2022. Nguồn: Tổng cục Hải quan.
Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cũng cho thấy, trị giá xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong kỳ 1 tháng 8/2023 đạt 10,56 tỷ USD, giảm 13,1% tương ứng giảm 1,59 tỷ USD so với kỳ 2 tháng 7/2023. Tính đến hết ngày 15/8/2023, tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa của nhóm các doanh nghiệp FDI đạt 153,33 tỷ USD, giảm 10,1%, tương ứng giảm 17,22 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước, chiếm 73,2% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước.
Từ chiều ngược lại, tổng trị giá hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam trong kỳ 1 tháng 8/2023 đạt 14,22 tỷ USD, tăng 5,3% (tương ứng tăng 714 triệu USD về số tuyệt đối) so với kết quả thực hiện trong nửa cuối tháng 7/2023.
Trị giá nhập khẩu hàng hóa trong kỳ 1 tháng 8/2023 tăng so với kỳ 2 tháng 7/2023 chủ yếu ở một số nhóm hàng, như máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện tăng 491 triệu USD, tương ứng tăng 13,6%; xăng dầu các loại tăng 151 triệu USD, tăng 38,8%...
Như vậy, tính đến hết 15/8/2023, tổng trị giá nhập khẩu của cả nước đạt 193,18 tỷ USD, giảm 22% (tương ứng giảm 54,52 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2022.
Trong đó một số nhóm hàng giảm mạnh như: điện thoại các loại & linh kiện giảm 9,18 tỷ USD, tương ứng giảm 66,2%; máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện giảm 7,31 tỷ USD, tương ứng giảm 12,8%; máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng khác giảm 5,76 tỷ USD, tương ứng giảm 18,8% so với cùng kỳ năm 2022.
Trị giá nhập khẩu của một số nhóm hàng lớn lũy kế từ 01/01/2023 đến 15/8/2023 và cùng kỳ năm 2022. Nguồn: Tổng cục Hải quan.
Trị giá nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp FDI trong kỳ này đạt 9,22 tỷ USD, tăng 6,9% (tương ứng tăng 595 triệu USD) so với kỳ 2 tháng 7/2023. Tính đến hết ngày 15/8/2023, tổng trị giá nhập khẩu của nhóm các doanh nghiệp này đạt 124,51 tỷ USD, giảm 22,6% (tương ứng giảm 36,39 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2022, chiếm 64,5% tổng trị giá nhập khẩu của cả nước.
Nhận định về tình hình xuất khẩu trong thời gian tới, Bộ Công Thương cho rằng sẽ có một số thuận lợi, bởi lạm phát tại các nền kinh tế lớn được dự báo tiếp tục hạ nhiệt. Lạm phát giảm có thể kích thích tiêu dùng, trong khi nhu cầu tiêu thụ hàng hóa cũng thường tăng cao vào dịp lễ hội cuối năm.
Yếu tố thuận lợi khác cho xuất khẩu các tháng cuối năm được Bộ Công Thương chỉ rõ là từ Mỹ - thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Cụ thể, kinh tế Mỹ tăng trưởng cao hơn dự kiến, tồn kho hàng hóa tiếp tục giảm là những yếu tố có tác động thuận lợi đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường này.
Đồng thời, việc các nước công nghiệp phát triển tiếp tục đẩy mạnh chiến lược đa dạng hóa nguồn cung, đã dạng hóa chuỗi cung ứng, đa dạng hóa đầu tư sẽ giúp Việt Nam trở thành một trung tâm sản xuất và xuất khẩu quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Hơn nữa, vai trò của Việt Nam ngày càng cao trong ASEAN cùng với việc khu vực này là trọng tâm ảnh hưởng của các nước khu vực thị trường lớn và cũng là một trong những khu vực vẫn duy trì được sức tăng trưởng và nội lực kinh tế khiến ASEAN trở thành thị trường ngày càng quan trọng trong chính sách đối ngoại và kinh tế của các nước: EU xây dựng chiến lược Ấn Độ Dương Thái Bình Dương; Hoa Kỳ thúc đẩy đàm phán IPEF, Anh đàm phán thành công gia nhập CPTPP... cũng sẽ tạo thuận lợi đối với các hoạt động đầu tư và sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam thời gian tới.
Bên cạnh đó, các yếu tố như hiệp định thương mại tự do (FTA) đang có với các đối tác thị trường lớn của Việt Nam như châu Âu, châu Mỹ tiếp tục có tác động tích cực đối với thương mại, đầu tư và xuất khẩu. Một số mặt hàng may mặc bắt đầu được hưởng thuế nhập khẩu 0% vào thị trường EU theo Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA)... sẽ là điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường này.
Để hỗ trợ phát triển thị trường xuất khẩu, Bộ Công Thương cho biết sẽ thực hiện đồng bộ các giải pháp.
Thứ nhất: Đẩy mạnh đàm phán, ký kết các Hiệp định, cam kết, liên kết thương mại mới, trong đó có hoàn tất đưa vào thực thi Hiệp định FTA với Israel, ký kết các Hiệp định FTA, Hiệp định thương mại với các đối tác khác còn nhiều tiềm năng như UAE, MERCOSUR... để đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng.
Thứ hai: Tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các cam kết trong các Hiệp định FTA, trong đó đặc biệt là các Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA) để đẩy mạnh xuất khẩu, thông qua tuyên truyền về quy tắc xuất xứ và cấp Giấy chứng nhận xuất xứ, các cơ hội và cách thức tận dụng cơ hội từ các Hiệp định.
Thứ ba: Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đàm phán với Trung Quốc mở cửa thêm thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng rau quả khác của Việt Nam như bưởi da xanh, dừa tươi, bơ, dứa, vú sữa, chanh, dưa lưới…
Thứ tư: Nâng cao hiệu quả và điều tiết tốt tốc độ thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu tại khu vực cửa khẩu thuộc biên giới giữa Việt Nam - Trung Quốc, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông sản, thủy sản có tính chất thời vụ; chuyển nhanh, chuyển mạnh sang xuất khẩu chính ngạch.
Thứ năm: Tăng cường cảnh báo sớm các vụ kiện phòng vệ thương mại; hướng dẫn doanh nghiệp cách ứng phó với các vụ kiện; kịp thời thông tin cho doanh nghiệp, Hiệp hội về thông tin, nhu cầu, quy định mới của thị trường.
Nguồn tin: VnEconomy