Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 9/2018 đạt 21.125 triệu USD, cao hơn 625 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện thoại và linh kiện cao hơn 587 triệu USD; sắt thép cao hơn 95 triệu USD; xăng dầu cao hơn 56 triệu USD; hóa chất cao hơn 51 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng cao hơn 46 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện thấp hơn 63 triệu USD; dệt may thấp hơn 100 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Mười ước tính đạt 20,80 tỷ USD, giảm 1,5% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 5,63 tỷ USD, tăng 1,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 15,17 tỷ USD, giảm 2,6%.
Một số mặt hàng xuất khẩu trong tháng có kim ngạch giảm, trong đó điện thoại và linh kiện giảm mạnh nhất với mức 21,4%; sắt thép giảm 17%; xăng dầu giảm 12,8%. Một số mặt hàng có kim ngạch tăng cao: Than đá tăng 45,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 26,5%; hóa chất tăng 21,7%.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Mười tăng 2,3%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 9,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) giảm 0,1%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 21,8%; hàng dệt may tăng 21,6%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 6,6%.
Tính chung 10 tháng năm 2018, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 200,27 tỷ USD, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 56,82 tỷ USD, tăng 16,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 143,45 tỷ USD (chiếm 71,6% tổng kim ngạch xuất khẩu), tăng 13,2%.
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực tiếp tục tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện đạt 40,7 tỷ USD, tăng 10,6%; hàng dệt may đạt 25,2 tỷ USD, tăng 17,1%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 24,3 tỷ USD, tăng 15,2%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 13,5 tỷ USD, tăng 28,3%; giày dép đạt 13 tỷ USD, tăng 9,7%.
Bên cạnh đó, một số mặt hàng nông sản, thủy sản cũng tăng khá: Thủy sản đạt 7,2 tỷ USD, tăng 5,9%; rau quả đạt 3,3 tỷ USD, tăng 14,4%; cà phê đạt 3 tỷ USD, tăng 1,1% (lượng tăng 21,5%); gạo đạt 2,6 tỷ USD, tăng 16,1% (lượng tăng 3,4%).
Một số mặt hàng nông sản tuy lượng xuất khẩu tăng nhưng do giá xuất khẩu bình quân giảm nên kim ngạch giảm so với cùng kỳ năm trước: Hạt điều đạt 2,8 tỷ USD, giảm 3,2% (lượng tăng 3,8%); cao su đạt 1,7 tỷ USD, giảm 7,6% (lượng tăng 13,4%); hạt tiêu đạt 683 triệu USD, giảm 32,8% (lượng tăng 8,9%).
Riêng dầu thô tính chung 10 tháng tiếp tục giảm mạnh về cả lượng và kim ngạch xuất khẩu so với cùng kỳ năm trước: Kim ngạch xuất khẩu dầu thô đạt 1,8 tỷ USD, giảm 24,8% (lượng giảm 45,4%).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 10 tháng, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 39 tỷ USD, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó điện thoại và linh kiện tăng 43,7%; giày dép tăng 15,9%; hàng dệt may tăng 13,6%.
Tiếp đến là EU đạt 34,9 tỷ USD, tăng 9,9%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 26,5%; hàng dệt may tăng 14,8%; điện thoại và linh kiện tăng 6,6%. Trung Quốc đạt 32,1 tỷ USD, tăng 21,3%, trong đó điện thoại và linh kiện tăng 117,1%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 29,3%; rau quả tăng 14,1%. Thị trường ASEAN đạt 20,6 tỷ USD, tăng 14,5%, trong đó gạo tăng 132,6%; sắt thép tăng 56,7%; hàng dệt may tăng 38,4%.
Nhật Bản đạt 15,3 tỷ USD, tăng 10,6%, trong đó hàng dệt may tăng 28,3%; giày dép tăng 20,5%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 9,7%. Hàn Quốc đạt 15 tỷ USD, tăng 23,5%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 50,4%; hàng dệt may tăng 23,8%; điện thoại và linh kiện tăng 14,9%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 9/2018 đạt 19.513 triệu USD, thấp hơn 287 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện thấp hơn 262 triệu USD; điện thoại và linh kiện thấp hơn 94 triệu USD; sắt thép thấp hơn 44 triệu USD; ô tô cao hơn 66 triệu USD; vải cao hơn 23 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Mười ước tính đạt 20,70 tỷ USD, tăng 6,1% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 8,15 tỷ USD, tăng 8,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 12,55 tỷ USD, tăng 4,4%.
Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tăng so với tháng trước: Phân bón tăng 32,6%; cao su tăng 28,5%; thủy sản tăng 17,7%; kim loại thường tăng 16%; xe máy tăng 14,2%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 7,4%; đặc biệt là nhập khẩu dầu thô tăng mạnh 163,1%, chủ yếu do phục vụ sản xuất của Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu tháng Mười tăng 13,6%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 14,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13%. Một số mặt hàng có kim ngạch tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Chất dẻo tăng 23,9%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 16%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 15,9%.
Tính chung 10 tháng, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính đạt 193,84 tỷ USD, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 77,50 tỷ USD, tăng 12%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 116,34 tỷ USD, tăng 11,7%.
Một số mặt hàng có giá trị kim ngạch nhập khẩu lớn trong 10 tháng: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 34,6 tỷ USD, tăng 13,2%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 27,5 tỷ USD, giảm 2%; điện thoại và linh kiện đạt 12,6 tỷ USD, giảm 1,6%; vải đạt 10,5 tỷ USD, tăng 12,9%; sắt thép đạt 8,3 tỷ USD, tăng 10,6%; chất dẻo đạt 7,4 tỷ USD, tăng 19,3%; xăng dầu đạt 6,8 tỷ USD, tăng 20%; kim loại thường đạt 6,2 tỷ USD, tăng 29,9%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 4,8 tỷ USD, tăng 4,6%; hóa chất đạt 4,2 tỷ USD, tăng 25,9%.
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 10 tháng, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 52,9 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó xăng dầu tăng 94,9%; vải tăng 17,4%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng tăng 10,2%; điện thoại và linh kiện tăng 3,9%.
Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc với kim ngạch nhập khẩu đạt 39,2 tỷ USD, tăng 2,1%, trong đó sắt thép tăng 19,4%; xăng dầu tăng 17,5%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 14,1%.
ASEAN đạt 26 tỷ USD, tăng 13,1%, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 15,4%; xăng dầu tăng 13,7%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 8%. Nhật Bản đạt 15,5 tỷ USD, tăng 14,6%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 37,5%; điện thoại và linh kiện tăng 31,1%; sắt thép tăng 13,9%.
EU đạt 11,2 tỷ USD, tăng 12,1%, trong đó vải tăng 25,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 16,9%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 14,3%. Hoa Kỳ đạt 10,6 tỷ USD, tăng 37,5%, trong đó thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu tăng 203,3%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 8,3%.
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Chín xuất siêu 1,6 tỷ USD. Tháng Mười ước tính xuất siêu 100 triệu USD. Tính chung 10 tháng tiếp tục xuất siêu 6,4 tỷ xuất 6,4 tỷ USD , trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 20,7 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 27,1 tỷ USD.
Nguồn tin: Tài chính